Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Hiểu và nghĩ vê nội dung - nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan).

Thứ ba - 17/09/2019 10:24
Bà Huyện Thanh Quan (? - ?), tên thật là Nguyễn Thị Hĩnh, người làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Bình ngày nay), do đó có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một nữ sĩ vào loại tài danh hiếm có thời phong kiến. Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng.
Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn bát cú. Đây là một trong hai dạng cơ bản, phố biến nhất của thơ Đường luật, gồm thất ngôn bát cú (7 chữ, 8 câu) và thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu). Thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định rất chặt chẽ về bố cục (tố chức cơ bản về nội dung và hình thức), luật (quy định về vần, thanh trong cả bài, đối giữa các cặp câu 3 - 4, 5 - 6), niêm (sự liên kết giữa các câu 1 - 8, 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7).

Có thể chia bài thơ thành bốn phần (đề, thực, luận, kết) theo bố cục thông, thường của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

Cảnh vật được miêu tả vào lúc chiều tà. Thời điểm đó dễ gợi lên tâm trạng buồn, cô đơn nhất là với người lữ thứ.

Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết: cỏ cây, hoa lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy táp nhà, tiếng chim quốc, chim đa đa và vài chú tiều phu. Các chi tiết được tả cho thấy cảnh Đèo Ngang um tùm, rậm rạp. Con người thì ít ỏi, thưa thớt. Các từ láy: lom khom, lác đác, các từ tượng thanh: quốc quốc, gia gia có tác dụng lớn trong việc gợi hình, gợi cảm và cùng gợi lên cảm giác hoang vắng, quạnh hiu.

Cảnh Đèo Ngang là cảnh thiên nhiên, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng rất hoang sơ. Cảnh được miêu mtả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của kẻ xa quê nên cảnh gợi lên cảm giác buồn, hoang sơ, vắng lặng.

Có thể thấy, ẩn giấu sâu kín sau bức tranh thiên nhiên là tâm trạng của người lữ thứ (Bà Huyện Thanh Quan). Đó là tâm trạng buồn, cô đơn, hoài cổ. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tiếng kêu da diết của chim quốc, chim đa đa cũng chính là tiếng lòng tha thiết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước.

Câu thơ cuối cùng chính là cao trào của nỗi buồn, nỗi cô đơn của người khách xa quê. Nó được miêu tả một cách trực tiếp (Một mảnh tình riêng, ta với ta).

Giữa cảnh trời, non, nước và một mảnh tình riêng có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì tình càng cô đơn, con người càng nhỏ bé. Như thế, rõ ràng cảnh góp phần khiến nỗi cô đơn của tác giả càng lớn hơn, nặng nề hơn.

Bài thơ là một mẫu mực cho thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật về mọi phương diện: từ số câu, số chữ đến cách hiệp vần, niêm, đối. Thế nhưng bài thơ không hề cứng nhắc, trái lại nó rất trang nhã, hàm súc, đặc biệt rất dồi dào về âm hưởng.

Tóm lại, với những nét bút trang nhã, nhà thơ đã vẽ nên cảnh Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, tuy có thấp thoáng bóng người nhưng cảnh vật và cuộc sống vẫn còn rất hoang sơ. Người lữ thứ đứng trước khung cảnh thiên nhiên ấy bỗng trào dâng nỗi niềm nhớ nước thương nhà và nỗi buồn lặng cô đơn của người xa xứ.

Bản quyền thuộc về Sách Thư Viện. Ghi nguồn sachthuvien.com khi đăng lại bài viết này.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây