Bài bánh trôi nước được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt (Đường luật). Bài thơ gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ, ngắt theo nhịp 4/3 truyền thông, vần được gieo ở cuối câu 1 câu 2 và câu 4.
Triển khai phân tích bài thơ theo bố cục bốn phần: khai, thừa, chuyển, hợp.
Bài thơ này được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, vì bài thơ tuân thủ đúng những quy định về luật thơ của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (luật Đường):
Bài thơ gồm bốn câu.
Mỗi câu có 7 chữ và ngắt nhịp 4/3.
Vần được gieo ở cuối các câu 1, 2, 4.
Nghĩa thứ nhất của bài thơ thuộc về nội dung miêu tả bánh trôi nước khi đang được luộc chín. Nghĩa thứ hai thuộc về nội dung phản ánh vẻ đẹp, phẩm chất và thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Với nghĩa thứ nhất, Hồ Xuân Hương đã miêu tả lại hình dáng của chiếc bánh cũng như các công đoạn làm ra chúng. Bánh có màu trắng của bột, bánh được nặn thành những viên tròn, bánh rắn hay nát đúng là phụ thuộc vào tay người nặn (cho nước nhiều hay ít). Bánh luộc bằng cách đun sôi nước. Khi chín, bánh sẽ nổi lên.
Với nghĩa thứ hai, hình ảnh bánh trôi nước trở thành biểu tượng, biểu trưng cho người phụ nữ xưa, với những khía cạnh như:
Hình thức: xinh đẹp.
Phẩm chất: trong trắng, dù gặp cảnh ngộ vẫn giữ được sự son sắt, thủy chung, tình nghĩa.
Thân phận: nổi trôi, bấp bênh giữa cuộc đời.
Trong hai nghĩa này, nghĩa thứ hai là nghĩa chính. Nghĩa trước là phương tiện để nhà thơ chuyển tải nghĩa thứ hai. Nhờ có nghĩa thứ hai mà bài thơ mới có giá trị tư tưởng.
Bài thơ rất thành công vì đã xây dựng được một hình ảnh biểu tượng, một ẩn dụ. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên mà vẫn ý vị, vẫn gợi ra nhiều liên tưởng sâu xa.
Bánh trôi nước là một bài thơ vịnh vật độc đáo. Nhưng vịnh món ăn dân tộc chỉ là một cái cớ để nhà thơ bộc bạch lên thân phận và tấm lòng của người phụ nữ với một niềm cảm thương sâu sắc.