Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành - Bài làm 1
Mảnh đất Tây Nguyên cùng với những người con kiên cường, hiên ngang từ lâu đã trở thành đề tài thu hút những nhà văn và một trong số đó có người nghệ sĩ Nguyễn Trung Thành. Và một trong số đó có tác phẩm “Rừng Xà Nu” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông khi ca ngợi về Tây nguyên đậm chất sử thi. Đặc biệt tác giả đã xây dựng thành công hình tượng cây xà nu mang đậm bản chất, chí khí cho con người sống trên mảnh đất này.
Nhà văn Nguyễn Trung Thành là người dân Tây Nguyên, ông viết rất hay về cảnh vật cũng như con người nơi đây. Tác phẩm được sáng tác trong khi ông còn hoạt động chiến trường miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Truyện đăng lần đầu trên tạp chí Quân giải phóng Trung Trung Bộ, và được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.Qua tác phẩm, nhà văn muốn ngợi ca tinh thần quật khởi của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù
Hình ảnh cây xà nu được ví von như hình ảnh con người làng Xô Man chưa bao giờ phải đầu hàng trước số phận luôn hướng về phía trước để bảo vệ độc lập, tự do đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chính hình ảnh rừng cây xà nu to lớn đã che chở cho người dân buôn làng khỏi những hiểm nguy của bom đạn kẻ thù, những trận đại bác của quân địch. Xuất hiện lên với đầy đủ dáng dấp phẩm chất con người Tây Nguyên vốn có, dường như chẳng điều gì có thể tàn phá chúng cả những trận đạn bom của kẻ thù cứ thế nhắm xuống để phá hủy rừng xà nu bát ngát, rộng lớn. Cứ thế dội xuống rồi chúng lại sinh sôi nảy nở, phát triển, tưởng như là ẩn chứa trong mình nguồn sức sống bất tận không bao giờ vơi cạn đi được.
Rừng xà nu như chứng nhân lịch sử, tận mắt chứng kiến cùng với người dân Tây Nguyên vượt qua bao khó khăn gian khổ, tựa như ngọn đuốc sáng dẫn đường cho người dân. Cây xà nu ăn sâu vào trong tâm niệm, gắn liền với từng hoạt động sinh hoạt thường ngày của mỗi con người nơi đây. Nó được nhà văn khắc họa như là biểu tượng cho tinh thần, ý chí sức mạnh ngang tàn của con người làng Xô Man nói riêng và con người Tây Nguyên nói chung. Loài cây ấy dường như lúc nào cũng hiên ngang mọc thẳng, vươn vai, cao lớn, hướng tới ánh sáng cũng như người dân Xô Man hướng tới hạnh phúc, sự độc lập dân tộc. Kiên cường mạnh mẽ ròng rã suốt từng ấy năm trời vẫn chẳng đổi thay, lớp từng lớp chồng lên nhau, thế hệ trước ngã xuống thê hệ sau tiếp tục vực dậy, kế thừa và phát huy những gì tốt đẹp mà thế hệ trước đã gây dựng nên. Những thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnú và bé Dít, bé Heng đều mang khát khao cháy bỏng về tương lai tươi sáng.
Một lần nữa ta phải công nhận rằng thật sáng tạo và độc đáo khi tác giả Nguyễn Trung Thành đã sử dụng rừng xà nu một cách sinh động và vô cùng thu hút người đọc. Dựa trên nhiều phương diện, góc nhìn khác nhau có thể thấy ông đi từ khái quát đến cụ thể để lột tả được ẩn ý miêu tả hình tượng con người mang những vẻ đẹp, phẩm chất cao đẹp. Rừng cây xà nu vươn cao lên nhưng cũng để nói dáng dấp con người đang cố gắng, phấn đấu vươn lên từng ngày.
Chính Tnú tiêu biểu đại diện cho những con người ấy, người chiến sĩ mang trong mình sự kiên cường, bất khuất. Từ thuở còn nhỏ đã xung phong tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ, quyết tâm học chữ, khỏe khoắn, kiên cường, chẳng điều gì có thể gục ngã người thanh niên ấy. Song hành với tuyến nhân vật là các nhân vật khác như anh Quyết, cụ Mết, Mai, Dít, Heng,…để làm nổi bật lên những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau đứng lên chống giặc, phát huy tinh thần đoàn kết, ý chí một lòng. Anh Quyết là tuy là cán bộ cách mạng, nhưng anh lại mang trong mình thêm trọng trách là người đã dạy chữ cho Tnú và Mai. Và cũng chính anh cũng là người nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh quật cường của những người dân làng Xô Man. Anh dường như nhận thức được tầm quan trọng của việc lí tưởng, khơi dậy trong chúng được lòng yêu nước, ý chí quyết tâm , bảo vệ tổ quốc của mình.
Và ta không thể không nhắc tới hình ảnh cụ Mết. Một thế hệ lão làng, anh hùng dẫn đường chỉ lối buôn làng nổi dậy chiến đấu. Tuy già nhưng không hề dễ dàng bị quật ngã bởi gió bão.Những thế hệ nối tiếp con đường của cụ Mết, Tnú là Dít và Heng. Dít lớn lên là chính trị viên xã đội, từ khi còn nhỏ, Dít đã là một cô bé gan dạ. Cứ sẩm tối, Dít lại “bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên”. dù bị giặc bắt nhưng nó vẫn im bặt, lạnh lùng, chẳng thể hiện một chút điều gì lo sợ trước mặt kẻ thù, bình thản một cách lạ lùng. Qua chi tiết ấy cũng đủ để thấy được tuy là một cô bé nhỏ nhắn nhưng Dít đã có đủ bản lĩnh và nghị lực phi thường của cô bé.
Dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn Nguyễn Trung Thanh các tuyến nhân vật được xây dựng một cách thành công. Cùng để khắc họa khu rừng Xà Nu mang nhiều ẩn ý khác nhau nhưng chung quy lại tác giả vẫn muốn làm nổi bật lên hình tượng con người núi rừng Tây Nguyên với sức mạnh phi thường. “Rừng xà nu” đã được nhà văn Nguyễn Thành Trung để tái hiện sự hừng hực trong khí thế chiến đấu giải phóng quê hương đất nước của con người vùng Tây Nguyên. Giọng văn mang tràn đầy khí thế, sự hừng hực, khí thế như không khí cuộc chiến đấu chống kẻ thù. Để ta thấy được rõ nét hơn, thêm hiểu và thêm yêu con người Tây Nguyên với biết bao phẩm chất tốt đẹp, cao quý. Họ chính là hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho con người Việt Nam thời kì chống Mĩ. Chính tác phẩm đã truyền lại, giúp thế hệ trẻ sau này hiểu và học hỏi thêm nhiều điều về ý chí kiên cường cùng niềm tin vào đường lối, ánh sáng của Đảng, Cách Mạng.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành - Bài làm 2
Rừng xà nu là tác phẩm để lại một dấu ấn sâu đậm trong kí ức mỗi chúng ta . Nguyễn Trung Thành được coi như là nhà văn của Tây Nguyên theo đúng nghĩa của nó . Cả cuộc đời ông sống, chiến đấu và gắn bó với núi rừng , với đồng bào Tây Nguyên dù ông không hề được sinh ra trên mảnh đất này. Ông cũng chính là người phản ánh một cách sinh động đời sống, tính cách và tâm hồn đồng bào Tây Nguyên trong tác phẩm của mình , và phần Tây Nguyên đó được đánh giá là hay nhất trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn .
Với vốn sống phong phú và một sự gắn bó đến kì lạ, mảnh đất Tây Nguyên đi vào tác phẩm của Nguyễn Trung Thành một cách tự nhiên, chân chất như cái bụng của đồng bào các dân tộc anh em nơi đây, và một trong những sáng tạo nghệ thuật để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc là Rừng xà nu . Tác phẩm không chỉ đề cập đến lòng yêu nước quật cường, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của đồng bào Tây Nguyên trong cuộc trường kì kháng chiến chống Mĩ , mà quan trọng hơn, khắc hoạ chân dung những con người anh dũng đã chiến đấu vì lí tưởng, trong mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên núi rừng .
Nguyễn Trung Thành có sở trường viết về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đã quen thuọc với ông từ ngày viết Đất nướcđứng lên . Nay lai được trở về với vùng đất ấy, tác giả gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của núi rừng, đặc biệt là rừng xà nu chạy tít tắp tới tận chân trời . Nhà văn đã từng thốt lên : Tôi yêu say mê cây xà nu, rừng xà nu từ đó . Bởi vậy cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh gợi cảm hứng sáng tác cho nhà văn, và nhan đề tác phẩm ra đời từ đó.
Xà nu, một loại cây họ thông mọc thành rừng , man dại mà trong sạch, hùng vĩ mà cao thượng . Thân cây cao vút, vạm vỡ, rắn rỏi, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã, rừng xà nu gồm hàng vạn , hàng triệu cây nối tiếp nhau vô tận tạo nên màu xanh mỡ màng cho núi rừng Tây Nguyên, thành một nét đặc trưng riêng biệt của Tây Nguyên. Cây xà nu có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào Tây Nguyên mà cụ thể là dân làng Xô Man từ ngàn đời nay : Ngọn lửa xà nu trong bếp của mỗi nhà, ngọn đuốc xà nu soi sáng từng đêm, đống lửa xà nu ở nhà cụ Mết trong đêm tụ họp dân làng đón chào Tnú trở về … rồi xà nu tham gia vào những sự kiện trọng đại của làng Xô Man : Dưới ánh lửa xà nu người dân Xô Man đêm đêm mài vũ khí chuẩn bị kháng chiến … Truyện có đến hơn hai mươi lần nhắc đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác nhau . Như vậy không có cây nào đúng và tiêu biểu cho vóc dáng, cho sức mạnh của dân làng Xô Man bằng cây xà nu . Tên tác phẩm đã cô đúc chủ đề tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát cao, giàu chất lãng mạn, chất thơ hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên .
Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành đã đồng nhất hình tượng cây xà nu với hình thượng dân làng Xô Man yêu nước . Xà nu cũng như dân làng chịu nhiều đau thương . Những ngày cách mạng Việt Nam còn chìm trong bão tố chiến tranh, dân làng Xô Man cũng như rừng xà nu cùng chung số phận : Làng ở trong tầm đại bác của giặc, chúng nó bắn đã thành lệ hai lần mỗi ngày … Sự sống nằm trong sự huỷ diệt của bạo tàn, của bom đạn chiến tranh . Do vậy cả rừng xà nu không cây nào không bị thương . Có nhiều cây xà nu bị đạn chặt đứt làm đôi, gục ngã nhưng cũng có cây xà nu chỉ để lại vết thương nhẹ , chóng lành . Cũng như xà nu, những con người Xô Man, thân thể và trái tim họ đầy thương tích . Cũng có những đời người như những cây xà nu bị chặt đứt tuổi xuân . Mai ngã xuống khi hạnh phúc lứa đôi và tình yêu tuỏi trẻ đang tràn trề … Đó là chuỗi ngày đau thương của người dân làng Xô Man, những quần chúng bị giết vì nuôi cán bộ . Anh Suốt bị giết, bà Nhan bị chặt đầu … lưng Tnú ngang dọc những vết dao, mười đầu ngón tay anh bị kẻ thù thiêu cháy . Những người con ưu tú đã ngã xuống : anh Quyết, Mai, cả đứa con thân yêu của Tnú … nhưng cũng như cây xà nu niềm tin bất diệt vào cuộc sống đã giúp họ vươn lên, vượt qua đau thương để chờ đón ngày ngày hạnh phúc .
Nguyễn Trung Thành lấy hình tượng cây xà nu đặt trong mối tương quan mật thiết với con người không phải chỉ là gần gũi trong đời sóng sinh hoạt . Rừng xà nu còn là hiện thân của sức sỗng mãnh liệt và bất diệt . Bản năng tự bảo tồn và sự thèm khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng xà nu chiến thắng được sự huỷ diệt của đạn bom . Nghĩa là tại một nơi mà sự sống và cái chết đối diện nhau, sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt . Cũng giống như lịch sử của dân làng Xô Man , đó là lịch sử của sự sống không bao giờ bị dập tắt , một tư thế sống không hề biết cúi đầu . Thanh niên không thể nuôi cán bộ thì cụ già, và khi cụ già ngã xuống thì đến lượt Mai, Tnú , và khi Mai không còn nữa đã có Dít thay thế … đến cả Tnú, khi mười đầu ngón tay không còn nữa, anh vẫn ra đi làm chiến sĩ giải phóng quân bởi anh nghĩ còn cử động ngón tay được nghĩa là còn khả năng cầm súng chiến đấu . ý chí của Tnú hay nói cách khác, khát vọng sống và bảo vệ cuộc sống trong anh nói riêng và của dân làng Xô Man nói chung là mạch nguồn để chiến thắng cái chết, chiến thắng bạo tàn .
Bên cạnh đó cây xà nu còn là loại cây ham ánh sáng, ham khí trời cũng giống như dân làng Xô Man yêu thích tự do . Họ biết yêu thương gắn bó với quê hương, gắn bó với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ : Đảng còn, Bác Hồ còn là đất nước này còn , Suy nghĩ của họ đơn sơ là vậy nhưng chân thật . Các thế hệ dân làng Xô Man, từ những người cao tuổi như cụ Mết vẫn khoẻ mạnh, quắc thước, rắn chắc như một cây xà nu lớn, hay những lớp thanh niên trẻ hơn , những lớp mang non đều nỗ lực vươn lên, vượt qua sự huỷ diệt như những cây xà nu lao vút lên bầu trời nhọn hoắt như những mũi lê .
Lấy hình tượng cây xà nu và sức sống mãnh liệt của nó , Nguyễn Trung Thành khắc hoạ sâu hơn tính cách con người Tây Nguyên : anh dũng, kiên cường . Cây xà nu trở thành hình ảnh ẩn dụ, trở thành biểu tượng cho sức sống mới và từ đó những con người hiện lên chói ngời ý chí đấu tranh và khát vọng hướng tới cuộc sống .
Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng . Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên . Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang. Sở dĩ trong “Rừng xà nu”, ông phải đặt một tên khác vì nếu lấy tên Đề nó “người Kinh quá”, gọi bằng Tnú “không khí hơn nhiều”, Tây Nguyên hơn nhiều . Tnú là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù . Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn . Anh là con của dân làng Xô Man . Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh . “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó . Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” . Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống , tin vào chính mình và không hề biết sợ hãi , không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng . Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện . Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người . “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thàng Mĩ – Diệm hay phục , qua chỗ nước mạnh nó không ngờ” . Sức mạnh của Tnú còn được hun đúc bởi một tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn . Vậy mà bằng ấy cái có , Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại . Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù . Tnú không cứu được vợ, được con , đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng . Vì sao vậy ? Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí . Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy .
Tnú không cứu được mẹ con Mai … Lời cụ Mết vang lên “Mày nhớ không Tnú, mày không cứu được vợ mày …Tau không nhảy ra cứu mày . Tau cũng chỉ có hai bàn tay không” . Những lời ấy của cụ Mết như một minh chứng cho qui luật : không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng . Chỉ còn cách cầm vũ khí , lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú . Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang . Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động . “Tiếng chuông nổi lên … và lửa cháy khắp rừng …Nghe rõ chưa các con, rõ chưa . Nhớ lấy, ghi lấy . Sau này tau chết rồi , bay còn sống phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo …” . Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam : phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó . Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược . Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà . Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được . Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man . Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí . Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên . Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi . Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú . Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói , một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man .
Cuộc đời Tnú, cuộc đời gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu . Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh . Cùng với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành một lần nữa lên án sự tàn bạo của kẻ thù, đồng thời nhấn mạnh khát vọng của con người , hướng tới tới tương lai và ánh sáng . Khắc sâu thêm một chân lí, cũng là lời phán quyết thiêng liêng của lịch sử : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo .
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh . Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật . Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy , bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây … Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật . Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt . “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng . Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi” . Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng . Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm .
Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện . Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy .
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng . Qua nhân vật này Nguyễn Trng Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền nam trong quá trình đấu tranh giải phóng .
Truyện ngắn “Rừng xà nu” tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước .
Trước hết nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử thi trong văn học . Đó là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật trung tâm trong những tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi thường là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm chất cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đòng. Và khi khẳng định, ngợi ca những anh hùng, những kì tích sáng chói …, người nghệ sĩ không nhân danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng. Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với khuynh hướng lãng mạn .
Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, khuynh hướng sử thi được thể hiện khá rõ ở việc lựa chọn đề tài, việc xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác phẩm … Đề tài của truyện “Rừng xà nu” nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không chỉ của cả cộng đồng dân làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam.
Truyện viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng Miền Nam những năm đen tối sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cho đến lúc Đồng khởi, nhưng đây là thời điểm tức nước vỡ bờ, nhân dân Miền Nam chuẩn bị vũ trang chiến đấu . Chủ đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi : trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân Miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương. Những nhân vật trong tác phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, thực chất là những kết tinh cao độ những phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn bó với dân làng, trung thành với cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường bất khuất, dũng cảm chiến đấu hi sinh …) . Lí tưởng sống của những nhân vật này luôn gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng. Hơn nữa, các nhân vật ở đây cũng được xây dựng thể hiện sự tiếp nối giữa các thế hệ cách mạng làng Xô Man. Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt đó của dân làng; Tnú tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng; Dít, Heng là thế hệ non trẻ tiếp nối cha anh … Vì thế, tất cả só phận của mọi nhân vật đều thống nhất với nhau, thống nhất với số phận của cả cộng đồng. Điều đó cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm .
Ngoài ra, chất sử thi của tác phẩm còn bộc lộ qua cách trần thuật. Câu chuyện về cuộc đời của nhân vật Tnú và cuộc nỏi dậy của dân làng Xô Man thực ra là một câu chuyện hiện đại, vừa mới diễn ra. Tuy vậy, chúng được kể như một câu chuyện của lịch sử với không khí và thái độ trang nghiêm, đầy ngưỡng vọng giống như lối kể về các tù trưởng hùng mạnh tiêu biểu cho ý chí, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng trong các sử thi Đam San, Xinh Nhã … của các bộ tộc Tây Nguyên .
Trong “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được nhiều hình ảnh chói lọi, kì vĩ như hình cây xà nu, rừng xà nu, hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú . Giọng văn trong truyện là giọng văn trang trọng, trang nghiêm, hùng tráng . Đấy cũng là giọng văn và hình ảnh của sử thi .
Như vậy, chất sử thi thể hiện qua nhiều yếu tố của tác phẩm , đặc biệt trong việc khắc hoạ tư tưởng, chủ đề của “Rừng xà nu” .
Rừng xà nu là truyện của một người nhưng qua đó ta thấy được số phận của cả một dân tộc . Đó là bức tranh hoành tráng , hoành tráng trong hình ảnh, với vóc dáng vạm vỡ của cao cả của rừng núi và của con người và hoành tráng trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết trang nghiêm.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành - Bài làm 3
Đã biết bao tấm gương hy sinh anh dũng và chiến đấu kiên cường vì độc lập, sẵn sàng hy sinh quên mình trên dải đất hình chữ S thân thương để có được nền độc lập, hòa bình ngày hôm nay. Các tác phẩm của bao thế hệ thi sĩ, nhà văn viết nên đã giúp cho các thế hệ hiểu hơn về đau thương, mất mát của cha ông. Một trong số tác phẩm bạn đọc không thể bỏ qua khi đi tìm hiểu về văn chương kháng chiến là Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Tác phẩm là sự ghi dấu về những cảnh rừng xà nu xanh bạt ngàn nhưng ẩn sâu khung cảnh đó là biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên.
Rừng Xà Nu sáng tác trong những năm kháng chiến chống Mỹ năm 1965. Người ta cho rằng đó là một câu chuyện đời thực được kể trong đêm. Câu chuyện cuộc đời ấy là câu chuyện về Tnú, và ý nghĩa của tác phẩm không chỉ là câu chuyện cuộc đời của một con người mà còn là lịch sử của một buôn làng, một dân tộc. Tác phẩm ra đời muốn minh chứng cho tinh thần ý chí quật cường của đồng bào người dân Tây Nguyên.
Qua nhan đề có thể thấy rõ được hình tượng cây xà nu được nhà văn nhìn nhận, miêu tả từ nhiều góc độ đưa lại hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt. Ngay hình ảnh mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu bát ngát đến chân trời được tác giả sử dụng được lặp đi lặp lại nhiều lần đến như vậy, nhất là “các đồi xà nu – 4 lần”; “rừng xà nu – 5 lần”. Cây xà nu không chỉ xuất hiện trong đoạn mở đầu và đoạn kết mà còn xuất hiện xuyên suốt câu chuyện mà tác giả tái hiện.
Thực tế, xà nu được biết tới là một loài cây họ thông, mọc khỏe và có nhiều ở mảnh đất Tây Nguyên, loài cây rất quen thuộc, gắn liền với cuộc sống thường ngày của người dân Tây Nguyên. Hình tượng rừng xà nu được gợi lên đầu bài với hình ảnh bảo vệ, che chắn người dân nơi đây khỏi mưa bom, bão đạn của kẻ thù nhưng lại là đối tượng mà quân địch nhắm tới để hủy diệt: “Chúng nó bắn đã thành lệ,… hầu hết đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Dường như những đau thương mất mát, khó khăn, hết lần này đến lần khác kẻ thù dội những trận bom xuống những cánh rừng xà nu như muốn hủy diệt sự sống của con người nơi đây.. Những vẫn hiện lên nét đẹp hào hùng lóe lên chính từ những điều gian khổ như vậy. Chẳng có điều gì có thể hủy hoại được sự sống bất diệt của cánh rừng xà nu năm ấy “Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. ” Cứ thế lớp nối lớp, sức sống sinh sôi mãnh liệt. Bởi thế chính từ những nét đặc điểm ấy của rừng xà nu đã làm điểm nhấn cho sức sống trường tồn bất diệt của người dân Tây Nguyên anh dũng, kiên cường.
Tiêu biểu hơn hết là hình tượng nhân vật Tnú, chính là linh hồn của tác phẩm với nét điển hình phẩm chất của dân làng Xô man, của nhân dân Tây Nguyên. Chính điều đó đã góp phần tạo nên, hình thành nên hình ảnh con người mang những nét phẩm chất rất đáng ngợi khen. Ngoài ra, nhà văn cũng miêu tả những đau thương tang tóc của dân làng như bọn giặc giết anh Xút treo lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan treo trên đầu súng, giết Mại Và đứa con, đốt 10 đầu ngón tay của Tnú.
Ngoài ra, tác giả cũng khắc sâu, tô đậm tình yêu thương mà Tnú dành cho vợ con cũng rất chân thành.. Ngày Mai sinh con, Tnú đi bộ để kiếm vải cho vợ địu con. Chứng kiến cảnh vợ con bị giặc đánh, tra tấn tàn bạo trong đêm, Tnú căm phẫn nhưng vẫn phải kìm nén vì anh là người của Cách mạng: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Nhưng cuối cùng bất chấp sự nguy hiểm của tính mệnh, anh lao ra cứu lấy vợ mình. Những thứ tình cảm rất đỗi đời thường đã tạo nên xây đắp lên một thứ tình cảm cao cả hơn đó là tình yêu quê hương, đất nước, yêu Cách Mạng.Lớn lên trong thời đại máu lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Tnú ý thức được hơn ai hết những lời dạy của Cụ Mết về đường lối, ánh sáng của Đảng. SInh ra và lớn lên giữa đại ngàn mênh mông rộng lớn, trong chính cái hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh đã nung nấu, nuôi dưỡng con người Tnú, Tnú như được di truyền hết những sức mạnh nội lực như sâu thẳm ẩn dấu bên trong khu rừng xà nu kia.
Rừng xà nu là được coi là một truyện ngắn được ví như bản hợp xướng ca ngợi chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Tây Nguyên. Với ngôn ngữ được tác giả chọn lọc mang đậm chất sử thi nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc, giản dị vốn có đồng thời hình tượng được xây dựng mang vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ. Khi miêu tả rừng xà nu tác giả sử dụng kĩ thuật điện ảnh lúc miêu tả cận cảnh (cây xà nu non, bị thương), lúc lùi xa (rừng xà nu chạy tít tắp), có lúc ống kính chao đảo (luồng ánh sáng thẳng tắp, lóng lánh bụi vàng)… Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu qua cảm nhận bằng nhiều giác quan khác nhau để thấy được rõ nhất, hiểu được và thấy được nét đẹp của rừng xà nu của người dân Tây Nguyên. Không đơn thuần là rừng cây trên dải Trường Sơn mà nó còn mang biểu tượng về phẩm chất của con người vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ này qua bao sự khắc nghiệt của chiến tranh gian khổ chống quan xâm lược, chúng vẫn vươn lên ngoan cường, mạnh mẽ bất chấp thời gian. Chúng vẫn hiện thân và mang trong mình vẻ hiên ngang, kiêu hãnh và vô cùng bền bỉ. Vì thế ta mới có thể hiểu tại sao Rừng Xà Nu lại là tác phẩm gây ấn tượng sâu đậm trong lòng các thế hệ độc giả tới vậy.