Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân

Thứ tư - 22/05/2024 09:40
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm đã dựng lên cuộc đời, số phận của người dân Việt Nam trong năm 1945 với nạn đói khủng khiếp khi hơn hai triệu người chết đói.

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân - Bài làm 1

Kim Lân là nhà văn thuộc hàng đầu trong những nhà văn viết về cuộc sống con người và khá ít tác phẩm, trong khi có một số tác giả ví dụ như Tô Hoài có đến hàng trăm tác phẩm trong cuộc đời làm văn chương, thì số tác phẩm của Kim Lân lại có thể đếm được bằng trên đầu ngón tay. Nhưng những gì mà ông đã để lại khiến chúng ta phải nhớ nhiều, nhớ mãi. Chỉ với một Vợ nhặt”, một “Làng” cũng đủ để có thể đưa ông lên được hàng những tác giả nổi tiếng nhất. “Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật được đưa nào, mà nhân vật nào cũng gây được những ấn tượng khó phai điều đó được thể hiện rất rõ nhất thông qua nhân vật Tràng.

Tràng là một người lao động nghèo, tính tình thì lại hơi khác thường, ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà”, “lưng to bè như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú, vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Anh ta sống ở xóm ngụ cư làm việc để nuôi mẹ già. Anh ấy làm nghề đánh xe bò thuê để kiếm sống. Mặc dù nghèo, anh ấy cực kỳ tốt bụng, rất yêu trẻ con, thường chơi với trẻ con hàng xóm. Cuộc sống lao động khổ cực đói nghèo đã in sâu và tạo nên một nét ngoại hình xấu xí của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới một ngòi bút hiện thực của Kim Lân, nhân vật cũng Tràng hiện lên thật vô cùng đáng thương và đau lòng.

Tâm trạng của nhân vật Tràng đã biến đổi từ khi anh bỗng “nhặt” được người vợ ngoài đường trong giữa nạn đói năm 1945. Lần gặp đầu tiên của hai người, lời nói đùa của anh Tràng chứ không hề có tình ý thật với cô gái đang đẩy xe cùng mình. Bởi hắn cũng chẳng bao giờ nghĩ rằng một người nghèo giống như Tràng lại có thể lấy được vợ cả. Ấy vậy mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…”. Tuy nhiên, người phụ nữ ấy đã ra đẩy xe với anh. Hôm sau khi gặp lại cô, anh đãi người phụ nữ bốn bát bánh đúc và đồng ý theo về làm vợ. Tâm trạng lúc bấy giờ của Tràng lúc đó đã “khiến hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.

Diễn biến tâm trạng của Tràng từ ngạc nhiên đến vui mừng, hạnh phúc nhưng cũng không thiếu những lo lắng. Trong lần gặp thứ hai, khi bị người phụ nữ mắng, Trang vẫn cười vui vẻ và đề nghị được mời người phụ nữ đi ăn dù anh không giàu có gì. Hành động này chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương.

Nhất là khi người phụ nữ quyết định đi theo mình, Tràng bắt đầu lo lắng vì phải lo thêm miếng ăn giữa thời điểm người ngoài đường chết như ngả rạ. Nhưng rồi anh tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng không phải là bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ đời mà là một thái độ dũng cảm, biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy bỏng khát vọng hạnh phúc, yêu thương những người cùng cảnh ngộ với mình.

Trang nghiêm túc với quyết định của mình. Anh đưa người “vợ nhặt” a chợ tỉnh mua đồ. Tràng rất quan tâm và chăm sóc vợ. Thế mới thấy, trong cái thời đói nghèo như vậy, tình người thật đáng quý.

Kim Lân đã khắc họa thành công tâm trạng Tràng trên nhiều cung bậc cảm xúc. Trên đường về, vẻ mặt của Tràng “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thể anh ta đang rất tự hào và hạnh phúc khi lấy được vợ giữa thời điểm khó khăn như hiện nay. Trong tâm trạng sung sướng và tự hào, Tràng đã mua dầu về thắp để khi vợ về thì nhà sẽ sáng trưng.

Sau khi về đến nhà, thì Tràng “xăm xăm” dọn dẹp sơ qua, “ngượng nghịu” giải thích sự bừa bộn là do thiếu bàn tay của người phụ nữ. Sự thật thà, mộc mạc của Tràng khiến người đọc thêm đồng cảm, yêu mến nhân vật này. Trang cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người phụ nữ này nhìn thấy hoàn cảnh gia đình mình mà bỏ đi. Bản thân Tràng “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi bất kỳ lúc nào.

Diễn biến tâm trạng của Tràng được miêu tả một cách chân thực khi anh ta rất háo hức chờ đợi bà cụ Tứ quay lại để bàn về chuyện cưới vợ. Tràng hiểu rằng mình phải xin phép mẹ, kẻo mẹ không đồng ý. Điều đó chứng tỏ Tràng là người con hiếu kính. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng cũng nói một cách tha thiết, trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ, lòng Tràng thở phào nhẹ nhõm.

Kim Lân diễn tả được tâm trạng thay đổi của nhân vật Tràng thông qua diễn tả cảnh sáng hôm sau đi lấy vợ. Tràng nhận thấy trong nhà có sự thay đổi lạ lùng. “Bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng đã cảm thấy rất hạnh phúc khi nhìn thấy người mẹ đang lúi húi để giẫy cỏ, vợ thì đang quét lại cái sân… Khuôn mặt của Tràng bỗng tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” dù cho đêm hôm qua hắn có nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.

Từ những điều giản dị như thế nhưng đong đầy hạnh phúc cho cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của gia đình để xây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.

Bữa ăn sáng ngày hôm đó tuy trông rất thật thảm hại, tuy cũng chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Từ một người đàn ông rất thô kệch, Tràng đã thay đổi tâm trạng và suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin vượt qua, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Điều này cho chúng ta thấy rõ rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu cái đói, cái chết đe dọa sự sống, thì con người vẫn khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc như một gia đình, thậm chí còn mãnh liệt hơn.

Kim Lân đã rất xuất sắc khi miêu tả một cách chi tiết diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào một tình huống độc đáo và éo le, để nhân vật thể hiện bản thân một cách rõ ràng và chân thành. Với lối kể sáng tạo, ngôn ngữ giản dị, gần gũi đã lay động trái tim người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật, đồng thời lấy đi nước mắt trước những mảnh đời bất hạnh của người lao động Việt Nam trong nạn đói lịch sử năm 1945 Nhân vật Tràng tuy nghèo nhưng tràn đầy sự ấm áp, yêu đời, hi vọng, lạc quan vào cuộc sống và sự đổi thay của xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến người đọc.
 

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân - Bài làm 2

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm đã dựng lên cuộc đời, số phận của người dân Việt Nam trong năm 1945 với nạn đói khủng khiếp khi hơn hai triệu người chết đói. Và tất cả đã được phản ánh đầy đủ thông qua nhân vật Tràng – nhân vật trung tâm của tác phẩm.

Nhân vật Tràng có hoàn cảnh, số phận bi đát, đáng thương tiêu biểu cho số phận của những người nông dân trước năm 1945. Nhà văn Kim Lân đã phác họa một vài nét về ngoại hình của nhân vật: quai hàm bạnh ra, dáng đi ngật ngưỡng, lưng to bè như lưng gấu. Tuy chỉ là vài nét nhưng lại cho thấy sự quê mùa, thô kệch, xấu xí ở hình dáng của nhân vật này. Đồng thời hình dáng nhân vật cũng im đậm dấu ấn nghề nghiệp, quanh năm phải gồng mình kéo xe, nên dáng người thô kệch, gương mặt trở nên lam lũ, khắc khổ.

Mặc dù là một người trưởng thành, nhưng tính cách của Tràng còn vương lại rất nhiều nét hồn nhiên, thậm chí ngờ nghệch của trẻ con. Tràng thường xuyên trêu đùa với lũ trẻ, rồi ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Ngoài ra, gia cảnh của Tràng cũng hết sức khốn khổ. Cha mất, chỉ còn lại hai mẹ con Tràng sống với nhau, ngôi nhà nơi hai mẹ con ở dúm dó, siêu vẹo và mảnh vườn lổn nhổn đầy cỏ dại. Không chỉ vậy, Tràng còn là dân ngụ cư, thường bị mọi người coi thường, khinh rẻ, không được phân chia ruộng đất, không được sinh hoạt cùng cộng đồng. Bằng cái nhìn đầy cảm thương, Kim Lân đã ghi lại hình ảnh lam lũ, vất vả của Tràng. Từ tính cách cho đến gia cảnh, nghề nghiệp cho thấy Tràng hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ.

Một người hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ như Tràng nhưng lại lấy được vợ hết sức nhanh chóng, chỉ qua hai lần gặp gỡ. Lần đầu, Tràng kéo xe thóc liên đoàn lên tỉnh, Tràng chỉ hát mấy câu vu vơ:

“Muốn ăn cơm trắng mới giò
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”.


Nhưng câu hò đã nhắc đến miếng ăn, vô tình tác động mạnh đến người đàn bà đã bị bỏ đói lâu ngày, bởi vậy, thị đã ton ton chạy lại đẩy xe bò với Tràng. Lần thứ hai, chỉ mất bốn bát bánh đúc và một câu nói đùa “Này, nói đùa chứ, có về với tới thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Từ giây phút đó Tràng chính thức có một người vợ. Câu chuyện Tràng lấy vợ quả là một câu chuyện bi hài. Hài là ở chỗ Tràng lấy được vợ quá đỗi nhanh chóng dễ dàng. Bi là ở chỗ nạn đói đang hoành hành, Tràng còn chưa lo nổi thân mình, lại đi đèo bòng thêm một người khác, không chỉ vậy, đám cưới là sự kiện quan trọng của đời người lại diễn ra hết sức qua loa, chóng vánh.

Mặc dù sự kiện Tràng lấy vợ diễn ra vô cùng chóng vánh, không có sự chuẩn bị chu đáo, nhưng lại có tác động rất mạnh, khiến cho Tràng có sự thay đổi toàn diện. Trước hết là sự thay đổi tâm lí. Sau khi cô vợ nhặt cùng Tràng về nhà, tâm lí Tràng có sự biến đổi liên tục, đi từ ngạc nhiên đến sung sướng, hạnh phúc, choáng ngợp. Tràng ngạc nhiên bởi không ngờ câu nói đùa của mình, lại khiến người đàn bà kia theo Tràng về thật. Tràng bất giác lo sợ, vì bản thân còn chưa lo xong, lại đèo bòng thêm một người nữa, trong hoàn cảnh nạn đói đang diễn ra tràn lan.

Nhưng niềm vui sướng ngập tràn, đã choán lấy tâm chí Tràng, khiến Tràng quyết định bỏ ra hai hào mua dầu về thắp với tâm niệm: “Vợ việc gì thì cũng phải sáng sủa một tí chứ”. Câu nói có phần quê kệch nhưng lại cho thấy sự tôn trọng của Tràng với vợ, đồng thời hành động đó còn mang ý nghĩa thắp lên niềm tin, hi vọng vào tương lai. Sự xuất hiện của người vợ, đã đem đến cho cuộc sống của Tràng những màu sắc mới mẻ, tưởng vui cùng với đó là cả niềm tin, hi vọng vào tương lai.

Không chỉ vậy, Tràng còn có sự thay đổi về tính cách. Trước hết là trong cách ứng xử với lũ trẻ, nếu thường ngày Tràng là bạn của chúng, thì hôm nay khi về cùng cô vợ nhặt, Tràng đã nghiêm nét mặt, tỏ vẻ không hài lòng với chúng. Sự vô tâm, vô tính hàng ngày biến mất thay vào đó là dáng điệu của một người đàn ông trưởng thành. Sự thay đổi lớn lao nhất chính là khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ.

Tràng đã giới thiệu vô cùng trang trọng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đây u ạ” “Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau … chẳng qua nó cũng là cái số cả ….”. Ai có thể ngờ rằng một con người quê mùa, cục mịch, ít học lại có thể nói ra những lời sâu sắc, ý nghĩa đến vậy. Tràng đã bỏ qua cái chóng vánh của cuộc hôn nhân, để tránh sự xấu hổ cho cô vợ. Dùng những lời lẽ trang trọng nhất: duyên số, kiếp để lí giải cho việc lấy vợ của mình. Câu nói tuy giản dị nhưng cho thấy sự trưởng thành trong suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật này, Tràng đã là một người đàn ông thực thụ.

Sự thay đổi toàn diện và có ý nghĩa nhất trong suy nghĩ và tính cách của Tràng được thể hiện trong buổi sáng đầu tiên khi Tràng có vợ. Sự sung sướng hạnh phúc của người đàn ông có vợ “êm ái, lửng lơ như vừa bước từ giấc mơ ra”. Cùng với đó là sự thay đổi bất ngờ, nhanh chóng, Tràng nhận thức được trách nhiệm của bản thân với gia đình, vun vén hạnh phúc cho tổ ấm của mình. Tràng không chỉ dừng lại ở việc biết lo lắng cho mình, mà còn biết lo lắng cho người khác, không còn sống qua quýt tạm bợ, mà biết lo nghĩ cho tương lai.

Cuối cùng là sự thay đổi trong nhận thức. Cuối tác phẩm hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới, cùng sự kiện phá kho thóc nhật, để lại trong Tràng nỗi ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, trước đó Tràng hoang mang, sợ hãi. Điều này cho thấy trong Tràng có sự thay đổi nhận thức, việc đi theo Đảng, cách mạng như một hệ quả tất yếu để đem lại tự do cho bản thân, và tương lai tốt đẹp cho cả gia đình.

Tràng đã được nhà văn Kim Lân đặt trong tình huống truyện độc đáo: nhặt được vợ, qua đó khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật. Nghệ thuật phân tích, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tự nhiên, hợp lí. Ngôn ngữ tự nhiên, nhuần nhuyễn, giản dị.

Bằng ngòi bút phân tích tâm lí bậc thầy, ngôn ngữ giản dị mà điêu luyện Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Nhân vật đã vẽ nên chân thực cuộc sống của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945. Đồng thời cũng thể hiện sự cảm thông, tin yêu của Kim Lân với số phận những người nông dân bất hạnh vào tương lai tươi sáng của họ.
 

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân - Bài làm 3

Nhà văn Kim Lân là một cây bút chuyên viết thể loại truyện ngắn, ông thường viết về chủ đề nông thôn và những người nông dân thông qua những lời văn hết sức chân thật, xúc động khi miêu tả về đời sống, cảnh ngộ và tâm lý của chính họ. Truyện ngắn "Vợ nhặt" là một tác phẩm xuất sắc đã được in trong tập "Con chó xấu xí" (năm 1962). Bối cảnh của truyện đó là vào thời gian nạn đói năm 1945 diễn ra thê thảm khủng khiếp do bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật tàn ác gây ra. Nhưng cho dù ở trong hoàn cảnh nào ngay cả khi cận kề với cái chết thì họ vẫn yêu thương và cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao có được hạnh phúc và có thêm niềm tin bất diệt vào một tương lai sáng lạn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được nhà văn Kim Lân thể hiện thông qua nhân vật Tràng.

Trong tác phẩm "Vợ nhặt", Kim Lân đã bộc lộ ra được quan điểm nhân văn khá sâu sắc của mình. Tác giả đã tìm ra được vẻ đẹp kì diệu của những người lao động giữa hoàn cảnh đói khổ và cùng cực, trong mọi hoàn cảnh dù cho có éo le thì họ vẫn vượt qua cái chết, họ tìm đến cuộc sống. Tiêu biểu trong đó hiện lên chính là nhân vật Tràng của tác giả Kim Lân.

Tác giả đã mượn quang cảnh trong ngày đói vô cùng thê thảm ở vùng nông thôn của Việt Nam gây ra bởi thực dân Pháp và phát xít Nhật vào năm 1945 để có thể khắc hoạ nổi bật lên được hình tượng nhân vật Tràng. Những người trong năm đói ấy được miêu tả bằng hình ảnh "khuôn mặt hốc hác u tối", "Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma", và "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma". Trong một không gian của thế giới đầy ngổn ngang giữa người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ thì "gào lên từng hồi thê thiết" cùng với những "mùi gây của xác người" lại càng tô đậm được cảm giác tang tóc đầy thê lương. Không gian mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng nên ở trong bối cảnh ấy hiện lên thật khủng khiếp. Cả một khoảng không gian ấy dường như chỉ hiện ra rất ảm đạm một màu sắc u ám vì cái đói, cái chết, sự tang thương đang bủa vây khắp chốn. Tuy nhiên chính ở trong không gian u ám đến ghê sợ ấy, tác giả lại có thể vẽ lên được một câu chuyện tình khá độc đáo. Đó là một câu chuyện tình khá táo bạo, dở khóc dở cười giữa hai nhân vật Tràng và thị, một câu chuyện tình bắt đầu từ bốn bát bánh bánh đúc giữa một ngày đói. Đây được coi là tình huống truyện rất độc đáo, tưởng chừng như vô lý nhưng lại thuyết phục đến mức lạ thường. Tình huống truyện này cũng đã gợi ra được một dòng tâm lí rất tinh tế trong mỗi nhân vật, đặc biệt là nhân vật Tràng.

Anh nhân vật tên Tràng bình thường ngốc nghếch, ngờ nghệch, bỗng nhiên trở thành người duy nhất có được cảm xúc hạnh phúc nhất ở trong cả xóm làng. Nhưng niềm hạnh phúc trở nên quá lớn, lại đến một cách đột ngột và khiến Tràng rất đỗi bất ngờ "đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?". Đó là một niềm hạnh phúc mà đến hắn và cả mẹ hắn hay đối với tất cả người dân trong xóm ngụ cư đều coi là chỉ tồn tại ở trong cổ tích. Rồi cái ngỡ ngàng ở trước hạnh phúc kia cũng rất nhanh chóng được đẩy thành niềm vui hữu hình và cụ thể. Đó là chính niềm vui về một hạnh phúc gia đình - một niềm vui giản dị nhưng lại đẹp đẽ và đáng quý đến mức không gì có thể so sánh nổi. Tình yêu cũng nhanh chóng nảy nở ở trong trái tim của một chàng thanh niên và đã đâm nhánh và trở thành tình yêu thương, gắn bó với căn nhà, với gia đình của hắn một cách rất lạ lùng.

Nhắc đến vợ, chúng ta luôn hiểu rằng đây chính  là người phụ nữ sẽ gắn bó cả đời với gia đình, người phụ nữ tảo tần và được mọi người hết mực kính trọng, yêu thương. Bởi vậy, dù người phụ nữ được Tràng "nhặt" về, chẳng có cưới hỏi, không có dạm ngõ nhưng Tràng không hề rẻ rúng, coi thường. Ngược lại, Tràng vô cùng tôn trọng cô ấy và coi việc cưới cô ấy, cùng cô ấy xây dựng một gia đình hạnh phúc là chuyện nghiêm túc. Khát vọng về một mái ấm gia đình đã cho Tràng vượt qua nỗi lo cái đói "đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng". Tràng chậc lưỡi và "kệ" cái đói, mua cho thị một cái thúng con, vài hào dầu và đưa thị về căn nhà lụp xụp và rách nát của hai mẹ con anh. Tràng hồi hộp chờ đợi sự đồng ý của bà cụ Tứ. Tâm lí và suy nghĩ của Tràng được tác giả xây dựng theo một diễn biến rất hợp lý. Nếu như lúc đầu thị chỉ thích thú trước những câu nói đùa của Tràng thì khi nhận được sự đồng ý của thị, thì trong đầu anh lại bắt đầu có những suy nghĩ trưởng thành, chín chắn và hướng tới tương lai. Trong đầu Tràng cũng đã thoáng lo về cái đói hiện tại, lo lắng bản thân mình phải đèo bòng vất vả hơn. Nhưng vì khát khao hạnh phúc gia đình quá lớn, Trang đã gạt bỏ tất cả những lo lắng đó sang một bên để bước tiếp tới tương lai.

Sau khi lấy vợ, Tràng cảm thấy khoan khoái như là người đi ra từ trong giấc mơ. Anh ta không bao giờ mong đợi rằng cuối cùng bản thân sẽ có một gia đình. Hắn đã nghĩ đến viễn cảnh tương lai vợ chồng anh sẽ sinh con đẻ cái ở đâu, căn nhà là một tổ ấm, như một nơi che mưa nắng. Đó là một điều hết sức giản dị nhưng lại là bước ngoặt lớn nhất trong cả cuộc đời của Tràng. Hắn cảm thấy rằng hắn cần nên người và cần phải có một trách nhiệm lớn với gia đình nhiều lắm. Một niềm hân hoan tột độ bỗng rạo rực và tràn ngập trong lòng. "Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Chi tiết: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà" cho thấy sự thay đổi vượt trội. Đó là bước ngoặt lớn làm thay đổi cả số phận và tính cách của nhân vật Tràng. Từ một cậu bé ngây thơ và vụng về, Tràng đã có một ý thức mạnh mẽ về nghĩa vụ của hắn: "hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này".

Tưởng chừng như câu chuyện đã có thể kết thúc khi Tràng đã thực sự trưởng thành và nhận ra trách nhiệm của mình, nhưng với ngòi bút tài hoa của Kim Lân, câu chuyện đã có một cái kết sâu sắc hơn. Câu kết của truyện "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” mang nhiều sức nặng về mặt nghệ thuật và nội dung có trong truyện cổ tích. Những thay đổi ở trong xã hội có tính chất quyết định và sẽ thay đổi vận mệnh của nhiều cuộc đời trong xã hội đó. Chi tiết rất mới mà các tác phẩm văn học hiện thực thời trước Cách mạng tháng Tám không thấy được, đây chính là một sự chuyển biến lớn, một sự soi sáng lớn về tư tưởng về cách mạng. Nền văn học mới sau cách mạng tháng Tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, hy vọng hơn, gieo vào lòng người niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, một xã hội không còn đói nghèo, không còn tiếng khóc than ai oán.

Có thể nói, “Vợ nhặt” là một tác phẩm truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân, một tác phẩm giàu giá trị hiện thực và nhân đạo, là bài ca về tình người giữa những người nghèo khó, ca ngợi niềm tin bất diệt vào một tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo, có nét ngờ nghệch, chất phác nhưng tâm hồn thì trong sáng như viên ngọc trai.
 

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân - Bài làm 4

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê , lam lũ hồn hậu , chất phác mà giàu tình yêu thương . Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị , biết hướng tới tương lai tươi đẹp .

Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng . Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945 . Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo , dở khóc , dở cười giữa Tràng và Thị , một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói .

Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo : Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc , tình yêu thương , cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói . Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế : nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ .Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa. Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật , đặc biệt là Tràng. Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi.. Chàng thanh niên nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Mặc dù người vợ được hắn nhặt về , nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại , Tràng vô cùng trân trọn, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói “ đến thân còn chẳng lo nổi , lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi “ kệ” cái đói , mua cho thị cái thúng con , vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình . Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ .

Buổi sáng hôm sau , Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra . Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng . Hắn thấy hắn nên người . Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân , là tác phẩm giàu giá trị hiện thực , nhân đạo ; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ , ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người . Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương , niềm hi vọng , lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây