Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân

Thứ tư - 22/05/2024 10:08
Khi khắc họa hình tượng người phụ nữ, các nhà văn thường lựa chọn những người phụ nữ tài sắc mà có số phận cùng cực bị đẩy đến đường cùng.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân - Bài làm 1

Khi khắc họa hình tượng người phụ nữ, các nhà văn thường lựa chọn những người phụ nữ tài sắc mà có số phận cùng cực bị đẩy đến đường cùng. Ta từng bắt gặp những người phụ nữ có số phận lận đận trong ca dao, một nàng Kiều trong những lời thơ của nhà văn Nguyễn Du, hay hình ảnh của chị Dậu trong đêm tối không có lối thoát… Nhưng đối với Kim Lân, nhà văn lại chọn ra một hình tượng người phụ nữ đặc biệt. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ được nhìn nhận trong cái nạn đói khủng khiếp, vì miếng cơm mà người phụ nữ đó sẵn sàng đánh đổi cả lòng tự trọng của mình, liều mình đi theo một người đàn ông xa lạ về làm vợ chỉ với bốn bát bánh đúc. Thế nhưng, ở người phụ nữ ấy,nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra những vẻ đẹp mặc dù tưởng chừng như đã bị cái đói che khuất đi. Cùng phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt của tác giả Kim Lân.

Truyện ngắn Vợ nhặt được sáng tác vào năm 1954 với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Tác phẩm viết về cái đói và cái hiện thực khốc liệt của nạn đói năm 1945 nhưng thể hiện niềm tin vào một cuộc sống và một tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ như chính nhà văn Kim Lân cũng đã từng nói “Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người nói dù thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”.

Vợ nhặt kể về một gia đình nghèo trong nạn đói của năm 1945. Tràng là một thanh niên chưa có vợ, sống với một người mẹ trong xóm ngụ cư. Trong lúc cái đói đã lên đến đỉnh điểm và tung hoành khắp nơi, anh lại dắt về nhà một người phụ nữ xa lạ về làm vợ của mình. Bà cụ Tứ – mẹ Tràng cũng vô cùng bất ngờ về điều này nhưng bà đã nhanh chóng hiểu ra được mọi chuyện và chấp nhận người đàn bà xa lạ này là con dâu của mình.

Có một nàng dâu mới cuộc sống của gia đinh Tràng bắt đầu đã có những sự thay đổi. Dù cho bữa cơm ngày đói thảm hại nhưng cũng không hề khiến cho mọi người bị mất niềm tin vào một tương lai. Đặc biệt,cái niềm tin ấy càng được tô đậm hơn qua câu chuyện của người vợ nhặt kể về một đoàn người phá kho thóc cứu đói. Và người vợ nhặt, trong câu chuyện này, đứng ở một vai trò rất quan trọng vừa là nạn nhân bi thảm của nạn đói, vừa là một người mang đến niềm tin ánh sáng vào tương lai cho gia đình của bà cụ Tứ.

Trong quá trình đi phân tích nhân vật Thị (người vợ nhặt), ta thấy được người phụ nữ này hiện lên với một số đặc điểm chính. Thị là một người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân của nạn đói, là một người phụ nữ khát khao có được cuộc sống hạnh phúc, khao khát có một cuộc sống bình dị.Không chỉ những vậy, Thị cũng là người làm thay đổi cả cách nghĩ của Tràng và cũng là người mang đến niềm tin cho cả gia đình Tràng.

Nhân vật thị xuất hiện không có tên tuổi, không có gốc gác và cũng không có gia đình. Tất cả những thông tin về thị đều là một con số không tròn trĩnh, thậm chí là không có được một cái tên gọi rõ ràng mà chỉ được gọi là “thị, ả, người đàn bà”. Cách xây dựng nhân vật như vậy gợi ra một thân phận mờ nhạt và vô cùng đáng thương. Và chính có lẽ thân phận ấy không chỉ là của riêng thị mà còn là của rất nhiều người, những con người khác trong cái nạn đói đó. Thị chỉ như là một mảnh đời trôi dạt, vô danh và hèn mọn thấp kém.

Cái đói đã làm cho bản thân của cô thay đổi quá nhiều về cả nhân hình lẫn cả nhân tính. Về nhân hình, lần trước gặp Tràng, thị vẫn còn hồn nhiên “liếc mắt, cười tít”, đon đả với anh nhưng đến lần thứ hai thì chính Tràng cũng rất ngạc nhiên về sự thay đổi bản thân của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.

Còn về nhân cách của mình thì thị quên đi cả sự ý tứ của một người con gái mà giờ đã trở nên suồng sã đến bất ngờ “sầm sập chạy đến”, “sưng sỉa”, “cong cớn” mà còn trách mắng Tràng “Điêu! Người thế mà điêu”. Thị đã buông ra những lời nói có phần trơ trẽn sống sượng gợi ý cho Tràng để được ăn. Khi Tràng đã đồng ý thì “hai con mắt trũng xoáy của thị tức thì sáng lên”, “ngồi sà xuống…cắm đầu ăn một chập bốn cái bánh bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”.

Khi phân tích nhân vật Thị, người đọc đã nhận ra đó là một hình tượng đáng thương hơn cả đáng giận. Cái đói, cái chết đã dồn con người vào bước đường cùng sẵn sàng làm tất cả. Thị còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ sau khi đã ăn hết bốn bát bánh đúc và chỉ một câu nói nửa đùa nửa thật của người đàn ông xa lạ này. Lúc này, thị không được khắc họa với những nỗi dằn vặt trong nội tâm hay với những ước mơ hoài bão của mình mà mọi hành động suy nghĩ của thị đều chỉ quẩn quanh miếng ăn, cái đói và cái chết.

Đó là một thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, bị cái đói đẩy đến bước đường cùng. Đây cũng chính là một số phận điển hình tượng trưng cho những người nông dân trong cái nạn đói bị cái ăn dày vò và bất chấp cả phẩm giá. Bức chân dung của một người phụ nữ không được nhìn qua cái con mắt của một người đang yêu – Tràng, không hề được đẽo gọt mà nó còn hiện lên một cách thật trần trụi.

Cuối cùng thì cô đã liều lĩnh nhắm mắt đưa chân của mình khi theo Tràng về làm người vợ vì ngay lúc này cô chỉ cần một chỗ dựa, cần một miếng ăn để được tồn tại và cần một mái ấm của gia đình. Phân tích nhân vật Thị, ta thấy được hình ảnh của cô dâu vu quy trong ngày đói cũng thật là xót xa. Cô đi sau Tràng “chừng ba bốn bước”, “cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt” với một vẻ rất “rón rén, e thẹn”.

Không chỉ còn là một người đàn bà sỗ sàng như ban nãy để được đòi ăn, mà giờ cái vẻ rón rén ấy chính là biểu hiện cho lòng tự trọng và ý thức về phẩm giá của mình. Thị đã ý thức được rằng mình là một người vợ theo không, không có một chút sự tôn nghiêm nào và đây cũng chính là một con đường duy nhất. Tràng đã trở thành một điểm tựa,trở thành cái phao duy nhất mà thị có thể bám víu vào trong lúc này.

Cô thực sự rất lo lắng, ngập ngừng và cũng có chút thất vọng khi về đến nhà Tràng.Khi nhìn xung quanh nhà của Tràng thì đã có thể đoán ra được gia cảnh của Tràng cũng không hề khá khẩm hơn thị là bao nhiêu. Bởi “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”, vào trong căn nhà thì thấy “mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa, hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi, đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi”.

Trước cái tình cảnh ấy, Thị“đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Ngôi nhà chính là nơi sự sống được ấp ủ,được nâng niu, vậy mà ở đây, ngôi nhà của mẹ con bà cụ Tứ tiêu điều hoang sơ lạnh lẽo như cạn cùng sự sống khiến cho thị đành phải ngậm ngùi và xót xa cho bản thân mình. Dáng ngồi “mớm xuống mép giường”, có cái gì đó đang lo lắng, bất an trong lòng, chông chênh đến tội nghiệp, hoang mang do dự cho những ngày tháng tương lai của đời mình sau này.

Thị cũng chẳng hay biết quyết định theo người đàn ông này là có đúng hay là không, cũng chẳng hề hay biết những ngày tháng sau này của cuộc được mình sẽ như thế nào.Khi phân tích nhân vật Thị ta cũng nhận ra được khi chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ, thị đã phải phó mặc số phận của mình cho cuộc đời. Nhưng số phận trớ trêu lại trêu ngươi thị một lần nữa. Người đàn ông hào phóng đã sẵn sàng cho thị bốn cái bánh đúc chỉ qua một vài lời bông lơn hóa ra gia cảnh của ông cũng không khá khẩm hơn thị là bao nhiêu, vẫn phải chạy vạy từng bữa ăn một. Thị thương cho cuộc đời số phận của mình nhưng rồi cũng đành phải chấp nhận mà thôi.

Và nỗi niềm của Thị ngay lúc này đây ngoài buồn tủi cho chính số phận của mình, thì Thị còn rất bất an. Bởi cô không biết liệu người mẹ của Tràng có chấp nhận một người xa lạ như cô về làm dâu không, có chấp nhận cưu mang thêm một miệng ăn trong căn nhà vốn đã khốn đốn nhiều này. Vì thế, khi mẹ của Tràng về, thị đã là người chủ động cất lời chào trước. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè khép nép bản thân hơn, dù thị chủ động gọi bà là “u” nhưng cũng chỉ dám “đứng nguyên một chỗ không nhúc nhích”.

Cái dáng vẻ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ấy cũng đã khiến cho bà mẹ già xót xa và vô cùng ái ngại. Chính cái dáng vẻ ấy của thị, đã khiến cho bà cụ Tứ động lòng thương. Với con mắt của một người đã từng trải, bà cụ hiểu được tất cả mọi chuyện đang diễn ra. Bà nhìn thị không bằng cái ánh mắt dò xét như cái cách một người mẹ chồng thông thường, cũng không nhìn thị với một ánh mắt khinh rẻ mà bà cảm thông hết mực cho số phận đau thương của thị.

Khi đã chính thức trở thành người vợ của Tràng, thị đã có những thay đổi rất bất ngờ hay có lẽ đó mới chính là một con người thật của thị trước kia mà đã bị cái đói làm mờ con mắt. Cô thức dậy sớm cùng người mẹ chồng quét dọn nhà cửa, thay đổi cách xưng hô với người chồng (Tràng) “sao nhà biết” và “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”

Khi đi phân tích nhân vật Thị, ta thấy được trong hoàn cảnh này thì Thị cũng đã bắt đầu biết vun xén cho cái gia đình nhỏ bé của mình. Đặc biệt, thị tỏ ra rất bình thản trước những bữa ăn ngày đói. Khi nhận chén cám – “chè khoáng” từ tay của người mẹ chồng, ban đầu thì “hai con mắt thị tối lại” nhưng sau đó “điềm nhiên và vào miệng”. Cô đã chấp nhận số phận hiện tại của mình và cũng không muốn làm cho bà mẹ thêm tủi cực và xót xa.

Phân tích nhân vật Thị để thấy được dù trong hoàn cảnh bất hạnh nhưng thị cũng đã được may mắn để tìm được những con người giàu về mặt tình cảm, giàu tình yêu thương đã sẵn sàng cưu mang thị, mang đến cho thị một hơi ấm của tình người, của một cuộc sống. Chính vì điều đó đã trả lại cho thị một bản chất tốt đẹp và thắp sáng lên trong thị một tâm hồn cao đẹp khát khao có được tình yêu, khát khao về một cuộc sống có sự hạnh phúc

Xuất hiện ở nơi mà cái nạn đói hiện ra với những hình ảnh thảm khốc và ác nghiệt nhất, nhưng có ai ngờ đâu chính sự xuất hiện của thị đã mang đến một luồng gió mới cho nơi đây. Tiếng cười nói,tiếng trêu chọc từ lâu vốn đã im bặt bởi cái đói hiển hiện, bởi cái chết đang đến cận kề thì hôm nay bỗng nhiên vang lên. Trẻ con thì thích thú trêu chọc “chông vợ hài”, còn những người dân trong xóm ngụ cư thì ngạc nhiên bán tán xôn xao. Không khí đã có phần bớt u ám và ảm đạm hơn trước.

Không chỉ mang ảnh hưởng đến những người dân xóm ngụ cư này, mà sự xuất hiện của thị còn mang đến một sức sống hy vọng cho gia đình của Tràng. Căn nhà cũng có phần thay đổi không còn xiêu vẹo nữa mà thay vào đó là “nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét nước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở trong một góc nhà đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi được kín nước đầy  ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã được hót sạch”.

Và thị còn khiến cho Tràng thấy mình nên người và đã trưởng thành hơn trước, bắt đầu biết cách sống có trách nhiệm hơn với gia đình. Với bà cụ Tứ, thị đã thắp lên một ngọn lửa của niềm tin, lạc quan và một niềm hy vọng. Phân tích nhân vật Thị ta thấy được niềm tin ấy tuy có nhỏ bé nhưng âm ỉ và bất diệt cứ lớn dần lên trong lòng của bà cụ. Bà cũng đã cùng con dâu vui vẻ dọn dẹp sân nhà để đón chào một cuộc sống mới mở ra một tương lai tốt đẹp hơn.

Nó đã khiến cho bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác so với ngày thường “cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm với ngày đói thảm thương với nồi cháo với nhúm rau chuối thái rối nhưng cũng đã đủ để gắn kết lại những con người này lại với nhau và tạo nên một không khí gia đình thật ấm cúng, hòa hợp.

Điều quan trọng hơn nữa là thị còn đem đến tin tức về cách mạng. Thị là một người đầu tiên kể cho cả nhà nghe về câu chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người dân không chịu đóng thuế nữa mà lại đi phá kho thóc của Nhật chia cho những người đói. Câu chuyện ấy khiến cho Tràng thấy ân hận và tiếc rẻ khi mình đã không tham gia vào đoàn người đi phá kho thóc mà Tràng đã từng gặp. Thị đã mang lại nguồn sáng và là người báo tin cách mạng. Và điều ấy đã dự cảm trước những sự thay đổi mới trong một tương lai.

Hình tượng nhân vật của người vợ nhặt đã được khắc họa một cách chân thật từ ngoại hình tính cách cho đến số phận. Phân tích nhân vật Thị để thấy được đây là một hình tượng có ý nghĩa tiêu biểu cho thân phận tội nghiệp của những người nghèo đói, cho khát vọng sống vô cùng mãnh liệt và ước muốn có được một mái ấm gia đình trong hoàn cảnh nghiệt ngã đau đớn ấy.

Phân tích nhân vật Thị để thấy được khi được sống trong sự yêu thương, đùm bọc, che chở, cô trở về đúng với bản chất tốt đẹp của chính mình gợi lên sự đồng cảm, trắc ẩn cho người đọc. Người phụ nữ ấy đã xuất hiện trong tác phẩm tuy không mang lại một vẻ đẹp kiêu sa và lộng lẫy nhưng lại mang đến một cảm giác ấm áp, mang đến một làn gió tươi mát cho một căn nhà u ám đang bên bờ vực của cái chết đang đến cận kề.

Người vợ nhặt chính là một đại diện tiêu biểu cho số phận của con người trong nạn đói thảm khốc năm 1945. Qua đó, nhà văn đã lên án và tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời,nhà văn Kim Lân còn thể hiện sự đồng cảm xót xa cho số phận của những con người nghèo khổ. Nhưng tác giả Kim Lân dù đã khắc họa họ là những nạn nhân khổ đau của nạn đói nhưng vẫn hiện lên trên những vẻ đẹp trong cuộc sống bình dị và đời thường. Đó là một vẻ đẹp của tình yêu thương. Và còn là vẻ đẹp của sự khát khao có được một cuộc sống hạnh phúc,nhưng trong hoàn cảnh tối tăm ấy vẫn hướng về một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.
 

Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân - Bài làm 2

Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.

Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..

Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…

Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.
 

Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân - Bài làm 3

Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ đã không thực sự được tác giả khai thác nhiều. Nhưng đối với nhân vật này, nhà văn Kim Lân cũng đã gửi đến cho người đọc những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn nhất,qua đó cũng đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của chính tác giả.

Người vợ nhặt được cũng được xây dựng là một hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ một giá sản gì, ngay cả cái tên của mình cũng không có, nếu Thị chỉ được gọi theo một cách chung chung và đầy rẻ rúng chính là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa để ở, hai lần đã gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Thị là người không có họ hàng và cũng không có cả nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam ta đang phải oằn mình để chống lại nạn đói, thị lại không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị phải sống trong sự dồn đuổi của những cái chết, hàng ngày, hàng giờ, và cái đói đã biến cho thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn một chút sự sống nào.

Chính cái hoàn cảnh đó đã bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất đi lòng tự trọng của chính bản thân mình. Nỗi ám ảnh về cái đói, và cái chết không chỉ vắt kiệt cái sự sống của một người đàn bà nghèo mà còn xói mòn đi cả nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được bộc lộ rõ qua hai lần gặp gỡ với nhân vật Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là một người đã không hề quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, nàng Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình,sau đó đẩy xe bò cho anh Tràng. Mãnh lực của miếng ăn là quá lớn, khiến thị đánh mất đi sự e dè, và thẹn thùng vốn có của một người phụ nữ.

Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, quá vô duyên đã đánh mất đi cả lòng tự trọng của mình. Sau lần gặp gỡ đầu tiên, không có bất cứ một lời hẹn ước nào cả, nhưng khi được gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt Tràng mà nói là: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được một lời mời cho đi ăn, thì thị đã không còn một chút ý tứ nào nữa, ngồi xuống và chỉ biết cắm đầu mà ăn một chặp hết cả bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn đã diễn tả được hành động ăn uống thô tục, đã lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên thật táo bạo, và liều lĩnh. Nhân cách và lòng tự trọng là thứ đáng quý nhất đối với mỗi con người đã bị bán rẻ chỉ vì cái miếng ăn. Đó là một hiện thực đau xót mà không chỉ có cô vợ nhặt mới vậy, mà đã có rất nhiều người dân Việt Nam rơi vào trong cái tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất đó là chỉ có một câu nói đùa của Tràng, cô đã vứt bỏ liêm sỉ của mình mà theo anh về làm vợ ngay. Trong cái hoàn cảnh đó không còn nơi đâu để bấu víu được , dù có là vợ nhặt thì cô cũng chấp nhận mới có thể thoát khỏi được sự truy đuổi của người thần chết.

Cũng như nhân vật Tràng, sau khi anh đã lập gia đình, người vợ nhặt đã có những sự thay đổi vô cùng lớn lao.Điều đầu tiên là sự thay đổi về mặt tâm lý tới tính cách. Trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng và luôn đi cạnh bên Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy được cái sự xấu hổ, ngượng ngùng đang bay bổng trong tâm lý của thị. Đó cũng là cái biểu hiện đầu tiên là đánh dấu sự trở lại của một nữ tính, sự trơ trẽn và chỏng lỏn đã không còn như trước nữa. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên nỗi niềm lo lắng cho tương lai của mình và về đến nhà khi nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh cùng với cái ngực lép của thị nhô lên sau đó nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghế ở mép giường, tay thì ôm chặt cái thúng.

Trước mặt người mẹ chồng, cô cũng đã lễ phép để chào hỏi, tay thì mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động,những cử chỉ đó của thị đã thể hiện một sự tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiên khi đối diện với người mẹ chồng. Song cũng bộc lộ được phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với những người lớn tuổi. Những biểu hiện này lại một lần nữa cho thấy rằng đó chỉ là cái chỏng lỏn chỉ là cái sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất đó thì vẫn là một tâm hồn đầy chất nữ tính.

Sự thay đổi rõ nhất trong cái tính cách chính là vào một buổi sáng đầu tiên sau khi thị đã lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, khi thị hôm nay đã khác hẳn so với trước kia, rõ ràng từng là một người đàn bà hiền hậu, rất đúng mực, không còn chao chát và chỏng lỏn như mấy lần gặp ở ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cách cảm nhận của Tràng được xuất phát từ việc làm hết sức giản dị mà mang lại ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ người chồng dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… khi đó Thị đã đem đến một màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám đó của Tràng. Tất cả những hành động đó của Thị cũng đã cho thấy được sự đảm đang, tháo vát của một người con gái đã cho thấy được Thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình nhỏ bé của mình, và có một khát vọng sống thật mãnh liệt vào hạnh phúc của gia đình mình.

Không chỉ có sự biến chuyển trong tính cách mà thị còn có một sự biến chuyển trong cách nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả là không hề dễ dàng, và bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của cả hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong cái tiếng khóc tỉ tê của nhiều những gia đình từng có người chết. Bữa cơm đầu tiên để đón cô dâu mới chính là một nồi cháo cám mặn chát, và lõng bõng là nước. Nhưng chính ngay lúc ấy, trong tâm hồn của thị vẫn còn có một niềm tin mãnh liệt vào một tương lai mới.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật nhà văn Kim Lân lại chọn thị chứ không phải chọn hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, đã phá kho thóc Nhật. Có lẽ rằng bởi một người dám đánh đổi tất cả, và kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì sự khát vọng được sống, hạnh phúc ở họ là không thể đi hủy diệt. Dù không có nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người thực sự đã ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như một người vợ nhặt,nhà văn Kim Lân cũng đã cho ta thấy một tinh thần hăng hái, chắc chắn là Thị sẽ mang theo con đường cách mạng.

Nhân vật người vợ nhặt được tác giả Kim Lân đặt vào một tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật đã bộc lộ tâm trạng, với cách hành xử của bản thân mình. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, nơi hành động qua đó làm nổi bật lên cái vẻ đẹp của một người vợ nhật.

Bằng một ngòi bút tin yêu và luôn trân trọng, nhà văn Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của nền văn học. Người vợ nhặt chính là một nạn nhân tiêu biểu nhất của nhiều người trong nạn đói năm 1945, nạn đói đó đã làm nhòe mờ đi cái nhân cách, với lòng tự trọng của chính nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn chính là một người phụ nữ đầy tính dịu dàng, nữ tính, và đã biết vun vén khao khát có được một cuộc sống hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là một người có niềm tin và có mãnh liệt vào tương lai mới của chính bản thân.
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây