Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Bài làm 1
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tài hoa uyên bác, một trí thức yêu nước, gắn bó sâu nặng với quê hương. Ông có lối viết văn hướng nội, các sáng tác của ông có sự kết hợp hài hòa của hai yếu tố nghệ thuật sắc bén, tư duy đa chiều và yếu tố trữ tình sâu lắng. Trong đó “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong những tác phẩm rất thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở thể loại ký và tùy bút. Tác phẩm thể hiện tấm lòng của tác giả- một con người có tình yêu tha thiết với quê hương, với mảnh đất mình từng sinh ra và lớn lên.
Sông Hương được miêu tả từ điểm nhìn nghệ thuật độc đáo. Trong những dòng sông đẹp ở các nước, dường như chỉ có sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất. Như vậy, sông hương luôn được khám phá trong mối quan hệ với Huế- một vùng đất Cố Đô. Mà vẻ đẹp của nó đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho các thế hệ nghệ sĩ. Đó là vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ trữ tình, vẻ đẹp nên thơ trong mối quan hệ với nền văn hóa Huế và vẻ đẹp bi tráng đồng hành với những sự kiện lịch sử của đất nước.
Nhà văn đã miêu tả Sông Hương khi chảy qua những vùng đất khác nhau, qua đó đem đến cho người đọc những hiểu biết thú vị về đặc điểm của dòng sông này. Ở thượng nguồn, sông Hương hùng vĩ mạnh mẽ như “một bản trường ca của rừng già”, sự hùng vĩ của dòng sông khi chảy qua vùng rừng núi hoang sơ hiểm trở còn được liên tưởng như “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại”. Về đến vùng châu thổ, Sông Hương mang vẻ đẹp trữ tình với dòng chảy mềm mại êm đềm dòng sông mềm như tấm lụa. Trước khi về với biển sông Hương còn đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố Huế lần cuối. Miêu tả sông hương theo thủy trình của nó, tác giả đã bộc lộ những hiểu biết sâu sắc tường tận về địa lý của đất nước.
Với vai trò là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, sông Hương có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành phát triển của nền văn hóa Huế. Nhà văn đã khẳng định toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông và Sông Hương đã trở thành “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Với sự tường tận trong kiến thức âm nhạc cổ điển Huế nhà văn còn liên tưởng đến sự ra đời của nền âm nhạc cổ điển Huế “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Bên cạnh đó Sông Hương còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ và tạo thành. Với sự hiểu biết phong phú về dòng sông thi ca này tác giả đã giúp người đọc khám phá vẻ đẹp độc đáo của sông Hương trong những phẩm nổi tiếng, từ vẻ đẹp lãng mạn trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, vẻ đẹp hùng tráng ẩn chứa khí phách của người anh hùng trong sáng tác của Cao Bá Quát cho đến sức mạnh phục sinh mãnh liệt trong thơ của Tố Hữu.
Không chỉ vậy, toàn bộ chiều dài thời gian lịch sử của đất nước nói chung và của sông Hương, xứ Huế nói riêng đã được nhà văn khái quát lại trong một đoạn văn ngắn nhưng rất sâu sắc. Người đọc có thể hình dung về sự gắn bó của sông Hương với lịch sử dân tộc từ khi nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng cho đến khi nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX và đi vào thời đại cách mạng với những chiến công oanh liệt. Nhà văn đã công phu tìm hiểu lựa chọn những sự kiện lịch sử để khẳng định vẻ đẹp bi tráng của sông Hương.
Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên phẩm chất đặc sắc của nhà văn này. Với bút pháp miêu tả kết hợp với tự sự và bình luận, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên sông hương, bởi sự phối cảnh kỳ thú của tạo hóa. Đó là một vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa thơ mộng hữu tình khiến người đọc liên tưởng đến hành trình của một con người, một vùng đất, một dân tộc.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” không chỉ là một trong những tác phẩm hay nhất viết về sông Hương mà còn là bút ký đặc sắc bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Bài ký đã khẳng định vẻ đẹp thiên nhiên và tình yêu quê hương đất nước của tác giả.
Bộ sổ tay hack điểm mọi kỳ thi chung và riêng chính là "vũ khí bí mật" giúp các sĩ tử hoàn thành tốt bài thi của mình. Nhanh tay đặt hàng để được nhận nhiều ưu đãi từ vuihoc bạn nhé!
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Bài làm 2
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút ký, tản văn. Sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, yêu con người, đặc biệt là văn hóa Huế. Trong đó “Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là một trong những trang văn rất hay của ông về một dòng sông mang bao nhiêu huyền thoại đẹp- sông Hương. Tác phẩm đã hội tụ lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của nhà văn. Đọc tác phẩm, người đọc cảm nhận được rõ vẻ đẹp của sông Hương.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết tại Huế vào tháng 1 năm 1981 ngay sau chiến thắng mùa Xuân 1975, trong tác giả vẫn còn bừng bừng khí thế chống ngoại xâm và cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở thể loại ký và tùy bút. Sông Hương là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Viết về dòng sông, nhà văn đã có những phát hiện độc đáo bất ngờ để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc về vẻ đẹp phong phú trên hành trình từ thượng nguồn ra biển. Đó là vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ trữ tình, vẻ đẹp nên thơ trong mối quan hệ với nền văn hóa Huế và vẻ đẹp bi tráng đồng hành với những sự kiện lịch sử của đất nước. Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương đã trở thành biểu tượng của Huế.
Tác giả khám phá vẻ đẹp sông Hương từ nhiều góc độ và trong nhiều mối quan hệ khác nhau thể hiện sự hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực. Trước hết, nhà văn đã miêu tả Sông Hương khi chảy qua những vùng đất khác nhau. Qua đó đem đến cho người đọc những hiểu biết thú vị về đặc điểm của dòng sông. Ở thượng nguồn, sông Hương vừa hùng vĩ hoang sơ vừa thơ mộng, tác giả đã miêu tả cụ thể dòng chảy của Sông Hương khi đi qua vùng rừng núi: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng”. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ chính xác “rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy” để miêu tả dòng chảy mạnh mẽ của sông Hương kết hợp với những hình ảnh “bản trường ca”, “cơn lốc” cùng nghệ thuật so sánh, qua đó giúp người đọc hình dung về những cung bậc và sức mạnh của dòng sông. Sự hoang sơ hùng vĩ của sông Hương gợi ta liên tưởng đến thác nước sông Đà của Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của sông Hương ở Thượng nguồn đã được khám phá với cái nhìn đa chiều, sự khám phá tinh tế và tâm hồn dạt dào cảm xúc của nhà văn đã làm cho ngay từ những trang văn đầu tiên hình ảnh sông Hương ở thượng nguồn toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt và đầy cá tính.
Khi ra khỏi vùng rừng núi Trường Sơn đến vùng châu thổ, dòng chảy của sông Hương đã được chế ngự. Sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ. Không chỉ vậy sông Hương còn được tác giả so sánh như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy man dại”. Sau khi người tình mong đợi đến đánh thức Dòng Sông Đã bừng lên sức trẻ với sự chuyển dòng liên tục “uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Chỉ trong một câu văn tác giả đã đặc tả hình dáng sông Hương bằng cái nhìn của họa sĩ để làm nổi bật vẻ đẹp hữu tình của dòng sông.
Nếu như ở thượng nguồn, dòng chảy mạnh mẽ của sông Hương được đánh giá là bản trường ca của rừng già thì khi về đến Huế dòng chảy của nó lại rất êm đềm lững lờ “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhịp điệu ngắn, chậm rãi, rất phù hợp khi miêu tả tốc độ chảy của nước sông. Sông Hương dường như không muốn chảy để mãi mãi quấn quýt, gắn bó với thành phố thân yêu của mình. Vì vậy từ tả thực nhà văn đã liên tưởng và cho rằng đấy là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Dòng chảy của sông Hương đã được cảm nhận như một vũ điệu cổ điển, lãng mạn. Khi ra khỏi Huế, sông Hương mang một vẻ đẹp hữu tình. Sông Hương gắn bó với xứ Huế bằng một tình yêu như mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng cho nên khi ra khỏi thành phố nó cũng có cách riêng “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn…”. Qua nghệ thuật nhân hóa kết hợp với so sánh, tác giả đã làm cho sông hương giống như một cô gái chung thủy, lưu luyến, bịn rịn từ biệt người yêu của mình. Sự đổi dòng đột ngột của sông Hương đã được miêu tả với bao cảm xúc vấn vương. Ở ngã rẽ này sông Hương đã “chí tình trở lại, tìm Kim Trọng”, “để nói một lời thề trước khi về với biển cả”. Qua cách liên tưởng độc đáo tác giả không chỉ khẳng định sự gắn bó của sông Hương với Huế mà còn lý giải sông Hương muốn gặp lại Huế vì một lý do rất con người. Dòng sông không chỉ đẹp mà còn rất hữu tình, nó càng đẹp hơn khi nó ẩn chứa vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa sông Hương và nền âm nhạc của điển Huế, tác giả viết: “sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Cách liên tưởng đã hé mở vẻ đẹp của một dòng sông khơi nguồn cho nền âm nhạc cổ điển Huế, đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của con người nơi đây. Với sự hiểu biết phong phú về dòng sông thi ca này, tác giả đã khẳng định sự gắn bó hữu tình của dòng sông êm đềm thơ mộng với những thi phẩm bất hủ đã đi cùng năm tháng: “Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Với cách nói độc đáo tác giả đã đưa người đọc đến một nhận thức, sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ và nhấn mạnh sự chủ động của dòng sông. Không phải các nhà thơ tìm đến sông Hương mà sông Hương tự tìm đến với thơ ca để dâng hiến vẻ đẹp tuyệt vời bằng sức hấp dẫn của mình. Điều đó thống nhất trong tính cách mạnh mẽ của dòng sông ngay từ ở thượng nguồn. Không chỉ vậy, gắn liền với dòng chảy êm đềm lững lờ của dòng sông Hương khi đi qua thành phố Huế là những nét đẹp riêng độc đáo của nền văn hóa Huế: “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm rằm tháng 7”. Như vậy, có thể thấy vẻ đẹp của sông Hương và văn hóa Huế hòa quyện vào nhau. Vẻ đẹp của sông Hương mang đậm dấu ấn văn hóa hàng ngày của những người dân vùng đất Cố Đô.
Từ xa xưa sông Hương đã gắn liền với những trang sử dựng nước giữ nước của dân tộc ta khi nó là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Dòng sông còn được so sánh như “một dũng sĩ đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của đất nước Đại Việt qua những thời kỳ trung đại”. Theo dòng lịch sử nhà văn đã phát hiện ra sông Hương là một nhân chứng lịch sử ở thế kỷ XVIII, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân” của người anh hùng Nguyễn Huệ, đến thế kỷ XIX nó đã đi qua những năm tháng bi tráng. Khám phá vẻ đẹp của sông Hương trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của dòng sông gắn bó với những con người và vùng đất Cố Đô.
Như vậy, vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với tâm hồn và chiều sâu văn hóa Huế đã được khám phá từ nhiều góc độ và qua những hình thức phong phú. Khắc họa hình tượng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo và sở trường của mình ở thể loại bút ký, đặc biệt là cái tôi tài hoa uyên bác thể hiện sự huy động vốn tri thức, vốn ngôn ngữ phong phú cùng với năng lực liên tưởng tưởng tượng tuyệt vời.
Bài bút ký đã khắc họa thành công hình tượng sông Hương với diện mạo thẩm mỹ phong phú, hùng vĩ và thơ mộng, vừa mang vẻ đẹp sử thi bi hùng, vừa ẩn chứa vẻ đẹp thi vị của thơ ca nhạc họa. Qua hình tượng sông Hương, tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người vùng đất Cố Đô mà còn gửi gắm tình yêu tha thiết và niềm tự hào sâu sắc về quê hương đất nước.
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Bài làm 3
Nếu người Hà Nội tự hào có con sông Hồng đỏ nặng phù sa, người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến bao đổi thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của con sông Hương ấy đã tươi mát cho cảnh vật cũng như con người nơi xứ Huế này. Vì thế, người Huế rất tự hào về con sông ấy nó mang đặc trưng của Huế là niềm tự hào kiêu hãnh của những con người xứ Huế. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã bao lần ngắm con sông Hương rồi một lần bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn khoăn ấy được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc họa, dòng sông và người xứ Huế.
Mở đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giới thiệu sự độc đáo, đặc biệt và đầy ấn tượng của con sông Hương. Nó là con sông duy nhất của thành phố. Trước về vùng châu thổ êm đềm, con sông thơ mộng ấy đã vượt qua bao thác ghềnh cuộn xoáy. Mang tính lưỡng thể, sông Hương vừa hùng vĩ như một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực thẳm, thế nhưng cũng có nhiều lúc dòng sông Hương trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm sài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Màu xanh của nước sông và sắc đỏ chói lọi của hoa đỗ quên như hòa vào nhau, những bông hoa đỏ rực như đang nghiêng mình soi bóng dưới dòng nước trong xanh ấy của dòng sông, cảnh đẹp và nên thơ. Sông Hương không đơn thuần là dòng sông nữa khi được tác giả liên tưởng nó như một cô gái Di-gan phóng khoáng khi nó ở giữa lòng Trường Sơn, có lẽ rừng đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Một sự liên tưởng độc đáo và táo bạo với cách so sánh mạnh mẽ và đầy bất ngờ. Ở đây. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xem con sông như một nhân vật trữ tình khiến cho chúng ta cảm nhận được rằng sông Hương có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng dịu dàng và say đắm. Thoát khỏi rừng già, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở. Dòng chảy của sông Hương ở đầu là cuộc hành trình gian truân không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó đã đóng kín cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phượng.
Dường như có sự gặp gỡ giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, cả hai khi miêu tả con sông đều xem nó như một chủ thể trữ tình. Khi miêu tả con sông Đà. Nguyễn Tuân đã viết như oán trách... như van xin... như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, có lúc như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rùng vầu rừng tre nứa đổ lửa... Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thế, thật tài hoa khi miêu tả sông Hương đã không ngần ngại khi sử bút pháp nghệ thuật so sánh, liên tưởng, ẩn dụ và nhân hóa về vẻ đẹp lưỡng thể đầy tính nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn. Tác giả đã nhắc khẽ mọi người nếu chỉ mãi ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc chiến tranh gian truân mà nó đã vượt qua... suy tưởng ấy đã làm cho những liên tưởng mà tác giả nêu lên thêm phần rung động thấm thìa.
Vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại, sông Hương như người con gái đang ngủ mơ màng được đánh thức bởi người tình mong đợi. Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục khi vừa ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình - thành phố tương lai của nó. Nó đã vòng những khúc đột ngột. Nó đã uốn mình theo những đường cong thật mềm... Con sông như được nhân hóa như đang làm duyên, đang múa lượn. Sông Hương lúc thì trôi theo hướng nam bắc theo điệu Hòn Chén, vấp phải Ngọc Trản, lúc thì chuyển sang hướng sang tây bắc vòng qua bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán. Rồi nó đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Dòng chảy của dòng sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, Ngọc Trản, bãi Lương Biểu, Lương Quán, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo... được tác giả vẽ ra, nhắc lại một cách chính xác thế kiến thức về địa lí, văn hóa tinh tường. Người đọc nhiều lúc cứ ngỡ là ông là người nhiều năm tháng đi du ngoạn ngược xuôi với con thuyền nhỏ bồng bềnh trong điệu Nam ai, Nam bình trên dòng sông Hương thơ mộng.
Ông yêu dòng sông quê mẹ, ông biết rõ dáng hình và những đường nét uốn lượn của nó. Cũng như Tố Hữu đã cảm mến thốt lên Hương Giang ơi, qua tim ta vần ngày đêm tự tình. Ông nói về sắc nước của Hương Giang là xanh thẳm dáng hình của nó mềm như tấm lụa, sự tấp nập rộn ràng của nó là những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng những con thoi. Ông say mê thưởng thức gương sông lấp lánh sớm xanh trưa vàng, chiều tím dưới ánh phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành Huế.
Giữa đám quần sơn lô xô, giữa những lăng tẩm đồ sộ của vua chúa nhà Nguyễn giừa những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi... tác giả nhắc lại một vần thơ cổ, thật đắc địa gợi lên không khí, khung cảnh u tịch và trầm mặc của những rừng thông, của dòng sông, những thành quách và những đồi núi lô xô ở đây. Ai đã từng một lần đến thăm thú Khiêm Lãng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận được cái đẹp của cảnh vật mà tác giả nói đến:
"Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên"
Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước con sông Hương trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa bát ngát tiếng gà của những xóm làng.
Một lần nữa ta được thưởng thức một đoạn tùy bút mà chất thơ lai láng, bồi hồi. Những liên tưởng và suy tưởng, những so sánh và nhân hóa, những kiến thức về địa lí, về văn hóa về thi ca được tác giả vận dụng tài hoa khi nói về vẻ đẹp quyến rũ của sông Hương đoạn từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ Đến vùng ngoại ô Kim Long, giữa những bãi biển xanh biếc, sông Hươu vui tươi hẳn lên khi nó nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phổ in ngần trên bầu trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Cồn Giã Viên và cồn Hến ở đầu và cuối thành phố như hai cù lao xanh đã làm cho dòng Hương uốn co mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Tác giả liên tưởng đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-núp của Bu-đa-pét, để nói lên vẻ độc đáo sông Hương là nó nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, nó đà cho Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai sông. Những nhánh sông đào mang nước Hương Giang tỏa đi khắp đô thị, những cây đa, cây dừa cố thụ, những ánh lứa chài lập lòe nơi xóm thuyền xúm xít trong đêm sương... đã làm cho cố đô Huế tựa như một linh hồn mô tê xưa mà không một thành phô hiện đại nào còn nhìn thấy được.
Lần thứ hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng so sánh về lưu tốc của sông Nê-va nơi thành phố Lê-nin-grat nước Nga với sông Hương. Hình ảnh chim hải âu co một chân đậu trên chiếc thuyền băng lướt qua cung điện Pê-téc-bua như một khám phá nhiều ngộ nghĩnh. Tác giả mơ ước được hóa một con chim nhỏ co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Con sông Hương khi gặp kinh thành xưa, hai hòn đảo Giã Viên và cồn Hến đã làm nó trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.
Nhìn những dòng sông, những dòng nước chảy, tác giả nhắc lại tiếng khóc của nhà triết học Hi Lạp hơn hai ngàn năm về trước để nêu lên suy nghĩ dòng chảy của cuộc đời, về sự biến chuyển không ngừng của vạn vật. Rồi ông lại nghĩ về điệu chảy lặng lờ của sông Hương, quý trọng coi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Hình ảnh hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội răm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về và sự ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của nỗi lòng đã nói lên thật thơ vẻ mộng mơ của sông Hương - bài thơ trữ tình của cố đô Huế. Sự ngập ngừng vấn vương ấy là vẻ đẹp của Hương Giang mà nhiều nhà thơ đã cảm nhận, trong đớ Thu Bồn đã có lần rung cảm.
Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gieo chữ lên những vườn hoa, những cánh đồng màu mỡ trong đó mỗi so sánh, nhân hóa và liên tưởng về dòng sông Hương đi qua Huế tựa như hoa thơm trái ngọt đã thể hiện một bút lực và tầm cao trí tuệ của nhà văn sở trường về bút kí, tùy bút. Ông dã dành cho sông Hương cả một tấm lòng yêu mến và quý trọng đặc biệt. Đoạn nói về sông Hương rời khỏi kinh thành ra đi được Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn tả bằng một ngòi bút nghệ thuật rất đỗi hào hoa phong tình. Ông đã nhân hóa sông Hương thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, họ biết nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước Hương Giang. Ông cho hay, thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh trên dòng sông Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu thơ Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời mang điệu nhạc cung đình Tứ đại cảnh. Hương rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi nó lại đổi dòng đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, phải chăng khúc lượn này, sông Hương có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Tác giả cho rằng đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và ông đã so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm trình tự, ông dẫn buông hai câu thơ của Nguyễn Du để nói sự lưu luyến chí tình với lời thề trước khi về biển cả. Thật không có sự so sanh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt thủy chung của lứa đôi còn non, còn nước, còn dài - Còn về, còn nhớ... lời thề của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân gian của xứ Huế. Sâu xa hơn nữa, lời thề ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở thân thương.
Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ đến với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với lời ca điệu hò gian dịu ngọt
Tác giả bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đã nói hộ lòng ta những tình cảm sâu sắc tốt đẹp ấy.