Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Phân tích Nhân vật Mị để thấy được sức sống tiềm tàng của nhân vật này.

Thứ tư - 29/04/2020 10:17
DÀN Ý
- Hoàn cảnh sáng tác
- Giải thích: Sức sống tiềm tàng
- Phân tích:
+ Mị là cô gái xinh đẹp, có cảnh ngộ và thân phận bất hạnh;
+ Mị trẻ trung, hát hay thổi sáo giỏi và khao khát một cuộc sống tự do.
+ Mị bị bắt làm con dâu thống lý Pá Tra, bị bóc lột về vật chất và tinh thần.
+ Phản ứng của Mị: ban đầu là khóc, muốn tự tử, sau thì Mị “đã quen khổ rồi”.
+ Mị sống một cuộc sống giống như con vật, bị tê liệt về ý thức.
-> giá trị hiện thực: cuộc sống thê thảm của người dân miền núi khi bị bóc lột về thể chất, sự đày ải về tinh thần.
+ Mị có sức sống tiềm tàng mãnh liệt: qua hai thời điểm:
* Đêm tình mùa xuân:
Không gian: Hồng Ngài vào xuân, tiếng sáo réo rắt..., nhà thống lý Pá Tra kẻ ra người vào tấp nập, tiếng nhạc nổi lên rộn rã...
Tâm trạng của Mị: uống rượu - nghe tiếng sáo - nhớ quá khứ tươi đẹp - muốn chết - nghe thấy tiếng sáo - Mị nhẩm thầm lời hát - đi vào trong buồng - thắp đèn và lấy cái váy hoa - sửa soạn đi chơi - bị A Sử trói đứng vào cột – Mị vẫn sống trong nỗi nhớ -.tiếng ngựa gãi chân vào vách - Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa
+ Đánh dấu sự trỗi dậy của sức sống trong lòng Mị.
* Đêm mùa đông cứu A Phủ:
Hoàn cảnh: Mị ra thổi lửa hơ tay, A Phủ làm mất bò của nhà thống lý nên bị trói đứng trong bếp cho đến chết.
Tâm trạng của Mị: ban đầu là thản nhiên -> nhìn thấy gọt nước mắt của A Phủ -> nhớ lại cảnh ngộ của mình -> thương mình -> thương người, cảm thấy bất công -> muốn cứu A Phủ -> cát dây cởi trói cho A Phủ -> không sợ chết -> khi A Phủ đi rồi -> sợ chế -> chạy theo A Phủ.
+ Sự trỗi dậy mạnh mẽ, chuyển hóa thành hành động quyết liệt bên ngoài.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật và giá trị, ý nghĩa: xem phần I.

BÀI LÀM:
Mị là một cô gái có đủ cả sắc đẹp, tài hoa nhưng nhắc đến Mị là người ta liên tưởng đến cô gái có sức sống tiềm tàng, kì lạ. Nó là sức sống ở bên trong con người, giúp con người vượt qua những chà đạp, giày xéo, để vươn lên đến bến bờ hạnh phúc.

Mị là cô gái xinh đẹp, có cảnh ngộ và thân phận bất hạnh.

Mị là cô gái dân tộc Mèo, một bông hoa của núi rừng Tây Bắc. Mị trẻ trung, xinh đẹp, hát hay, thổi sáo giỏi, khao khát tự do, là niềm mơ ước của bao nhiêu chàng trai: “Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Cô còn là người con hiếu thảo và có ý thức lựa chọn hạnh phúc cho mình: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Mị tin rằng mình có thể bằng sức lao động mà thanh toán được món nợ truyền kiếp cho bố mẹ, đồng thời vẫn giữ được sự tự do của mình. Đó là khao khát tự do của một người mang trong mình sức sống mãnh liệt.

Số phận:
Vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ mà Mị đã trở thành con dầu gạt nợ của nhà thống lý Pá Tra. Tô Hoài mở đầu tác phẩm bằng hình tượng của một cô Mị “đang quay sợi”, “bên tảng đá cạnh tàu ngựa, lúc nào cùng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Bên cạnh cái nhộn nhịp của cuộc sống nhà thống lý là cảnh sống câm lặng của Mị, giống như bức tranh tương phản khắc nghiệt được vẽ ra bằng giọng văn chậm và buồn. Tô Hoài đã khắc họa chân dung - số phận Mị như bức chân dung- số phận của một cuộc đời đầy giông bão. Mị đã bị ném vào địa ngục trần gian và ban đầu Mị quyết định tự tử. Không phải Mị chán sống mà chính niềm khao khát sống mãnh liệt đã đẩy Mị đi đến quyết định đó. Nó là “biểu hiện lộn ngược của lòng ham sống cho ra sống chứ không cam chịu một cuộc sống tăm tối”.., Vì lòng hiếu thảo mà Mị đành gạt nước mắt trở về nhà thống lý Pá Tra, tiếp tục sống trong những đày ải về thể xác và tinh thần. Mị đào sâu chôn chặt tất cả khao khát trước kia của mình, Mị sống mà như đã chết, không ước mơ, không khát khao, thậm chí cả không cười nói. Mị bị đày đọa về thể xác khi bị biến thành công cụ lao động làm việc quần quật quanh năm suốt tháng không được nghỉ ngơi: chẻ củi, cõng nước, hái lá... Thậm chí Mị bị đánh và bị trói tàn nhẫn (trong đêm mùa xuân, A Sử đã đạp chân vào mặt Mị khi Mị mệt quá ngủ thiếp đi; hay đêm mùa đông Mị dậy sưởi lửa cũng bị A Sử đánh ngã ngay ở cửa bếp). Mị bây giờ như “con rùa nuôi trong xó cửa”, "Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Cách so sánh vật hóa như thế đã biến Mị thành một công cụ lao động biết nói chứ không còn là con người nữa. Lâu dần, Mị mất ý thức về thời gian, không gian. Gian buồng của Mị "có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Nếu nhà thống lý Pá Tra là một nhà ngục khổng lồ thì gian buồng của Mị chính là cụ thể hóa cho cái địa ngục trần gian đó. Thậm chí, sự bóc lột về thể xác đã dẫn đến sự đày ải về tinh thần khi Mị đã sống rất lâu vói cái suy nghĩ: nó đã bắt mình về trình ma nhà nó rồi thì chỉ có đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Cái phức tạp trong suy nghĩ của Mị là những lúc ham sống nhất lại là lúc Mị thèm chết nhất, khi không thèm chết nữa cũng chính là lúc Mị không thiết sống nữa.

Sức sống mãnh liệt của Mị trong đêm tình mùa xuân:
Mùa xuân đã đem đến sức sống cho đất trời Hồng Ngài: "Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”. Nắng vàng rực rỡ trên những đồi cỏ gianh cùng "những chiếc váy đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ”, những đêm tình mùa xuân, trai gái hẹn hò dưới ánh trăng, tiếng kèn tiếng sáo. Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh đến âm thanh của tiếng sáo trầm bổng thiết tha gọi bạn tình lửng lơ ngoài núi, đầu làng. Tất cả đã góp phần tạo dựng một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở vùng cao Tây Bắc.

Vẻ đẹp của mùa xuân đã góp phần đánh thức sức sống tiềm tàng lẩn khuất bấy lâu trong tâm hồn Mị. Âm thanh của cuộc đời bên ngoài trở thành tiếng lòng của cô. Hành động đầu tiên đánh dấu sự hồi sinh là việc Mị lén lấy hũ rượu ra uống. Cái cách uống rượu cũng khác lạ "cứ uống ừng ực từng bát”, như muốn trút tất cả tủi sầu cay đắng vào lòng. Bên cạnh không khí tấp nập nhộn nhịp của nhà thống lý Pá Tra ta vẫn thấy hình ảnh một cô gái cô độc và tách biệt hoàn toàn với thế giới ấy. Trong men say, Mị nghe thấy tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Nó khiến Mị như tỉnh thức ra, đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ; Tiếng sáo đánh thức một đoạn đời tươi đẹp của Mị. Tiếng sáo khiến Mị dần có ý thức về tuổi trẻ và giá trị của: "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Chính ý thức ấy đã thức tỉnh khao khát yêu đương, khát khao hạnh phúc bởi lần đầu tiên sau bao năm làm dâu nhà thống lý, Mị đã nhận thấy thực trạng bất công và cuộc sống cơ cực của mình. Cái hay của nhân vật này là lúc sức sống mãnh liệt trỗi dậy mạnh mẽ nhất chính là lúc Mị muốn tìm đến cái chết nhất: "giá có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Như vậy tiếng sáo khống chỉ gợi lên quá khứ mà còn gợi ra đau thương thê thảm trong cuộc đời Mị và nó bắt Mị phải đối diện, phải nhìn thẳng vào sự thật đến mức khiến Mị “không buồn nhớ lại nữa”. Và cũng lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, ý thức về sự sống - cái chết lại trở lại trong tâm trí Mị, lòng ham sống đã rạo rực trong lòng Mị cùng cái chối từ về cảnh sống hiện tại đã khiến Mị muốn tìm đến cái chết.

Sức sống tiềm tàng chuyển hóa thành hành động bên ngoài. Mị không chỉ "muốn đi chơi” mà còn “sửa soạn đi chơi”: “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa trong vách”. Mị cũng có nhu cầu làm đẹp và đi chơi như bao người. Nhà văn đã tỏ ra tinh tế khi sử dụng chi tiết: "Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Việc thắp đèn dầu phải chăng Mị muốn thắp sáng căn buồng âm u, tối bưng kín mít của mình, đồng thời cũng là muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời mình. Tất cả những hành động đó đều cho thấy Mị hành động như một con người tự do.

Sự "nổi loạn” của Mị bị dập tắt nhanh chóng. A Sử xuất hiện rồi đem trói đứng Mị vào trong xó nhà bằng một thúng sợi đay. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc vào cột làm Mị không cựa quậy được nữa, Khi bị trói, Mị vẫn nghe tiếng sáo gọi bạn tình. Những vòng dây trói của A Sử có thể cầm tù được thể xác nhưng không thể trói buộc được khát vọng tâm hồn của Mị. Mị vẫn sống trong nỗi nhớ, vẫn tự do nương theo tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài đường. Lại một lần nữa, sức sống tâm hồn bên trong thôi thúc tâm hồn Mị, chuyển hóa thành hành động bên ngoài khiến "Mị vùng bước đi”. Nhưng những vòng dây trói đã đưa Mị trở về với thực tại. Tô Hoài đã rất tinh tế khi đặt hai loại âm thanh cạnh nhau: 1 âm thanh của khát vọng tiếng sáo vọng ra từ tâm tưởng với 1 âm thanh của thực tại - tiếng ngựa gãi chân, đạp chân vào vách và nhai cỏ. “Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê lúc tỉnh”. Chính những lúc giây phút tiềm tàng trỗi dậy mãnh liệt nhất là lúc Mị cảm thức thân phận mình một cách mãnh liệt nhất: "Cố thổn thức, nghĩ mình không bằng thân con ngựa”.

Có thể nói, sức sống tâm hồn Mị đã hồi sinh mãnh liệt trong khoảnh khắc đêm mùa xuân đó. Để rồi nó dường như bị tê liệt. Mị lại trở nên cam chịu nhẫn nhục, lặng lẽ như kiếp trâu, kiếp ngựa, kiếp rùa. Nhưng một khi khát vọng sống trở lại thì nó luôn âm ỉ chứ không bị tắt hẳn, nó trở thành "bàn đạp” cho một cuộc trốn chạy thực sự vào đêm mùa đông trên núi cao sau đó.

Sau cái đêm bị trói đứng vào cột nhà rồi được cởi trói để đi hái thuốc cho chồng, từ đó Mị sống tăm tối nhẫn nhục hơn trước. Nhưng chính cái đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn này, sức sống tiềm tàng của Mị mới bùng phát mãnh liệt, thông qua hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ.

Những đêm trước ra cời than hơ tay Mị vẫn thấy A Phủ bị trói ở đó, Mị thản nhiên như không “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Mị đã quá quen thuộc với cảnh hành hạ con người diễn ra trong nhà thống lí Pá Tra rồi. Và chính Mị cũng từng bị bắt trói đứng như thế, rồi bị đạp vào mặt đến mức ê chề rồi. Sự chai sạn trong tâm hồn Mị là kết quả của chuỗi ngày sống trong nhà thống lý, khiến cho Mị dường như quên lãng chính cái bản chất vốn có của mình, ấy là lòng thương người ; bản tính sẵn có trong tâm hồn mỗi người phụ nữ.

Nhưng, những gì đã chết trong lòng Mị sẽ được hồi sinh khi "thấy 2 mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã xám đen lại”. Dòng nước mắt của A Phủ là biểu hiện của sự đau khổ khi một chàng trai vốn khỏe mạnh gan góc bây giờ đang từng giây từng phút đối diện với cái chết. Chính những giọt nước mắt đó đã khiến Mị nhớ lại: “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng như thế kia”. Hình như những con người đồng cảnh ngộ thường dễ có sự đồng cảm với nhau hơn, giọt nước mắt của A Phủ đã gợi lên cảm giác thương thân cho Mị. Trong lòng Mị vang lên một lời độc thoại, đó là những lời đồng cảm của một con người dành cho đồng loại: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... người kia việc gì mà phải chết thế”; Từ thương thân chuyển sang thương đồng loại là một biểu hiện tâm lý hợp lý bởi Mị thấy rằng việc A Phủ bị chết là một điều thật vô lý: “Chúng nó thật độc ác”. Lần đầu tiên, Mị đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù: “Chúng nó” là toàn bộ chế độ thống trị miền núi đương thời mà cha con thống lý Pá Tra là đại diện. Càng căm ghét chế độ cường quyền Mị lại càng thương cảm cho A Phủ “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột đó nhưng Mị vẫn không thấy sợ, vượt qua nỗi sợ là lòng thương người. Niềm đồng cảm và tình thương trở về đã biến Mị từ một người cam chịu thành một người liều lĩnh, nổi loạn. Ý nghĩ cứu A Phủ đến rất nhanh, kéo thành hành động: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Sau hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ, ta thấy được sự am hiểu tâm lý con người của Tô Hoài. Mới đầu Mị không sợ chết, không sợ chết chính là biểu hiện của sức sống mạnh mẽ, bất chấp cái chết. Nhưng khi A Phủ đã chạy đi rồi, đối diện với cái chết đang lửng lơ trước mắt, Mị lại thấy sợ, chứng tỏ lòng ham sống trỗi dậy tự nhiên trong người con gái này. Bước chân lao đi của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn phong kiến miền núi đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao năm qua. Câu nói vang lên: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất” là biểu hiện của khao khát sống, khao khát tự do của Mị. Lí giải hành động quyết liệt này của Mị, trước tiên ấy là niềm đồng cảm sâu sắc giữa hai thân phận. Nếu như Mị là con dâu gạt nợ thì A Phủ là đứa ở trừ nợ. Cả hai đều phải đem tuổi trẻ, tự do của mình mà phải trả món nợ cho nhà giàu. Nhưng niềm đồng cảm là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ. Để đi đến hành động táo bạo ấy còn bởi trong Mị tiềm tàng một sức sống. Rõ ràng không phải người phụ nữ nào trong hoàn cảnh ấy cũng đều làm được như cô. Nghĩa là sang khoảnh khắc này Mị lại thấy cái chết đáng sợ. Lần theo quá trình chúng ta thấy: Khi Mị muốn tự tử là Mị khống thiết sống. Khi cứu A Phủ, niềm tha thiết với cuộc sống đã trở về đầy đủ, cho nên Mị sợ cái chết. Từ phút trước đến phút này ta thấy sự thay đổi mau lẹ trong tâm hồn Mị, từ không sợ chết đến sợ chết. Nhưng cả 2 chỉ là những biểu hiện tự nhiên, thuận chiều của một sức sống và một lòng ham sống. Mị thấy mình không thể chết vô lí và nhất thiết phải sống. Những diễn biến phức tạp này đã chi phối hoạt động của Mị. Trước, Mị chưa nghĩ đến chuyện cứu mình, mới nghĩ đến chuyện cứu người, tức là Mị mới chỉ thương người. Còn tại thời điểm ngặt nghèo này, ý nghĩ cứu mình mới đến, nghĩa là lòng thương mình mới thức dậy đầy đủ. Tình thương đã trả lại cho Mị tất cả những gì thuộc về sức sống của một con người mà bao năm trời do bị chà đạp, giày xéo tưởng như đã héo úa, lụi tàn. Cắt dây cởi trói cho A Phủ đồng nghĩa với việc Mị đã cắt sợi dây trói buộc mình với gia đình thống lý. Như vậy, phẩm chất Người trong con người Mị là bất diệt cho dù hoàn cảnh có tàn bạo đến đâu cũng không tiêu diệt được phẩm chất người. Sự kiện Mị cứu A Phủ, rồi cả 2 cùng quyết định trốn khỏi nhà thống lí tuy chỉ là một cảnh ngắn nhưng nó thực sự là một bài ca ca ngợi tự do trong đó người nô lệ đã “tức nước vỡ bờ” vùng lên phá cũi sổ lồng. Tất cả sức mạnh của họ đều xuất phát tù khát vọng sống sâu xa và mãnh liệt.

Cũng chạy trốn trong một đêm tối trời, tối đất nhưng cuộc đời Mị không bế tắc cùng quẫn như chị Dậu: "Chị Dậu chạy té ra sân, trời tối đen như mực, và tối như cái tiền đồ của chị” mà ở truyện ngắn này, nhân vật Mị đã có sự đổi thay tích cực. Tô Hoài không chỉ thấy được sức sống tiềm tàng của người dân lao động miền núi mà còn thấy được sự gắn bó tự nhiên tất yếu của họ. Đó là một biểu hiện sâu sắc của giá trị nhân đạo mới mẻ mà chỉ văn học sau cách mạng mới có được.

Qua cuộc đời, cảnh ngộ, số phận của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo mạnh mẽ hiện thực xã hội miền núi trước cách mạng với chế độ thống trị khắc nghiệt, với những phong tục tập quán lạc hậu đã chà đạp, đè nén, vùi dập con người, cướp đi quyền hạnh phúc của con người, biến mỗi kiếp người trở thành kiếp trâu, kiếp ngựa. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc, chân thành trước cuộc đời của những con người có số phận bất hạnh. Tô Hoài còn trân trọng, nâng niu những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động miền núi ở cả Mị và A Phủ, đó là sự trân trọng sức sống tiềm tàng của cả hai nhân vật này. Cũng chạy trốn trong một đêm tối trời, tối đất nhưng cuộc đời Mị không bế tắc cùng quẫn như chị Dậu mà ở Mị, tương lai đã tốt đẹp, tươi sáng hơn. Qua nhân vật Mị, tác giả đã thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của mình. Thành công tiêu biểu là đã miêu tả một cách logic quá trình phát triển nội tâm của nhân vật, đặc biệt là tính cách nhân vật Mị. Nhà văn sử dụng thành thạo lời nửa trực tiếp, đó là lời kể của tác giả nhưng người đọc vẫn cảm nhận như chính lời của nhân vật đang tự bộc lộ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”..., có nhiều chi tiết giàu chất thơ.

Bản quyền thuộc về Sách Thư Viện. Ghi nguồn sachthuvien.com khi đăng lại bài viết này.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây