* Không gian châu thổ Châu Hóa: hình thế sông thay đổi theo địa hình, chuyển dòng liên tục, khi “vòng đột ngột”, khi “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, và “khi vẽ một hình cong thật tròn... màu sắc thay đổi: sáng xanh trưa vàng chiều tím, Sông Hương như người con gái đẹp mơ màng bừng tỉnh giấc”.
* Không gian kinh thành Huế: mềm mại, gợi cảm, màu sắc con sông là xanh thẳm, “là Kiều, rất Kiều”.
+ Sông Hương dưới góc nhìn âm nhạc: dòng sông của thi ca với nhã nhạc cung đinh và ẩm nhạc dân gian Huế.
+ Sông Hương dưới góc nhìn lịch sử: “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”: con sông miền viễn châu thời các vua Hùng, trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, dòng sông soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, sông Hương qua cách mạng tháng Tám, qua hai cuộc kháng chiến.
+ Sông Hương dưới góc nhìn thơ ca: Sông Hương từng xuất hiện trong thơ Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Tố Hữu.
- Nghệ thuật bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: như phần I
- Giá trị, ý nghĩa: như phần I.
BÀI LÀM:
Không gian núi rừng Trường Sơn: sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt. Sông Hương đã nhận vào đó tất cả những sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”... Do đó, sông Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ man dại, vừa khơi gợi những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp kiêu sa, rực rỡ. Hàng loạt tính từ được tinh lọc để người đọc nhận ra từng âm sắc của bản trường ca; rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy, dịu dàng và say đắm, phóng khoáng mà man dại. Phần hồn riêng của sông là phần hồn của một con người đã trải qua cả một quá trình trưởng thành từ “con gái Di-gan” trở thành “bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”: vừa mang sức sống mãnh liệt và hoang dại, vừa có diện mạo dịu dàng trí tuệ, vừa có tâm hồn trong sáng thẳm sâu lại vừa dạt dào một khát vọng tự do. Một vẻ đẹp chứa đựng những sự bí ẩn hoang sơ ẩn trong rừng già, ghềnh thác, bóng cây đại ngàn, sắc đổ quyên “chói lọi màu đỏ”. Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa đã làm hiện lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt đầy cá tính.
Không gian châu thổ vùng Châu Hoá là sự chuyển tiếp từ vùng đồi núi sang vùng đồng bằng nên rất đa dạng về địa hình: có vực sâu, có đồi núi trùng điệp, có thềm đất bãi, có vùng lăng tẩm giữa mây trời và rừng thông. Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại” sông Hương hiện ra như một “cô gái đẹp mơ màng” ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi "chuyển dòng liên tục”, khi “vòng đột ngột”, khi “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, và khi “vẽ một hình cong thật tròn... ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực, đi giữa âm vang, tôi đi giữa hai dãy đồi”... Dòng chảy của sông phẳng lặng, hiền hoà, trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”, sắc nước của sông xanh thẳm khi qua lòng vực, phản chiếu màu sắc của đồi núi, mây trời khi qua những quả đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, hình thế của sông thay đồi theo hình thế của địa hình, lúc uốn khúc quanh co, lúc lại mềm như tấm lụa. Vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kỳ diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên thơ mộng xứ Huế.
Không gian kinh thành Huế: nhiều biền bãi, nhiều cồn đảo và những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp đô thị. Dòng sông càng trở nến mềm mại, gợi cảm và đa cảm hơn. Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xây dựng hẳn một đoạn văn dài, so sánh song Hương với những dòng sông vốn là niềm tự hào của nhiều thành phố văn hoá: sông Xen của Paris, sông Đanuýp của Buđapet, sông Neva của Leningrad... Cách so sánh ấy vừa tôn lên lòng tự hào về văn hoá trên mảnh đất cố đô triều Nguyễn, vừa khám phá ra những điều độc đáo riêng biệt của dòng Hướng. Đó là việc “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng đến cồn Hến”, với liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường cong ấy làm dòng song mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế.
Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sỹ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm” của chính nó, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, với những “biển bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; sắc "u sầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe của lửa thuyền chài”...
Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến dòng sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ, vừa dịu dàng mềm mại như một bức tranh lụa, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm đềm.
Dòng sông Hương cũng mang vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình: Khi là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng, khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ... Sông Hương được nhà văn khẳng định “là Kiều, rất Kiều” - nghĩa là không chỉ xinh đẹp, tài hoa mà còn đa tình và say đắm. Từ góc nhìn mang tính phát hiện này, nhà văn đã hình dung ra cuộc hành trình của sông Hương là cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Gặp được thành phố người tình mong đợi rồi, con sông trở nên duyên dáng ý nhị trong cái cách “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến”, cái đường cong “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Cũng như Kiều khi gặp chàng Kim ở hội Đạp Thanh, sông Hương qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở để ánh hoa đăng chao nhẹ trên mặt nước “như những vấn vương của một nỗi lòng”. Và cũng như Kiều trong đêm tự tình với Kim Trọng, sông Hương đã rời khỏi kinh thành lại đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại thành phố 1 lần cuối như vương vấn, chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.
Sông Hương là dòng sông của thi ca âm nhạc: Chất âm nhạc của dòng sông hiện ra trước hết ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ. Đó là một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng được tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp miên man với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, gợi những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang. Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường của “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái chèo khuya đập nước”... Trên đất nước Việt Nam tuy dòng sông nào cũng gắn với điệu hò, câu hát, song có được sự tồn tại song song của hai dòng nhạc cung đình và dân gian như sông Hương thì không thể có hai. Dòng nhạc cung đình rất trang nhã, rất sang trọng. Dòng nhạc dân gian cũng rất đằm thắm, da diết ân tình. Điểm gặp gỡ của cả nền âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian là đều đã được sinh thành trên mặt nước sông Hương nên nó chỉ vang lên hay nhất trong những khoang thuyền, chỉ bộc lộ trọn vẹn sức lay động của nó với những ai từng lênh đênh trên sông nước trong những đêm khuya. Sông Hương hiện lên thiết tha đắm say như một bản nhạc êm đềm.
Và sông Hương cũng không bao giờ lặp lại mình trong các áng thơ văn. Đó là “dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà, hay uy nghi lừng lẫy “như kiếm dựng giữa trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, lúc thì thấm một nỗi quan hoài khi trời chiều bảng lảng trong thơ Bà huyện Thanh Quan, hay là dòng sông có sức phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu... Sông Hương, qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường, “là Kiều, rất Kiều”...
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc. Đó là dòng sông của thời gian ngân vang, của “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trò một dòng sông biên thùy của đất nước thuở các vua Hùng thuở còn mang tên Linh Giang – dòng sông thiên. Trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng sông “viễn châu”, dòng sông ở chốn xa xôi của Tổ quốc đã cùng con người tham gia vào những trận chiến đấu oanh liệt để bảo vệ chủ quyền nước Đại Việt. Dòng sông cũng đã từng "soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” trong thế kỷ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của bao cuộc khởi nghĩa”. Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỷ XX, sông Hương lại đóng góp sức mình để làm nên chiến thắng, từ cách mạng tháng 8/1945 đến mùa xuân Mậu Thân 1968, sông Hương kiên cường chịu đựng nỗi đau của những mất mát không thể bù đắp khí thành phố Huế bị bom Mỹ tàn phá, khi những di sản văn hóa bị hủy hoại. Cùng với Huế, sông Hương đã trở thành một "nét son” trong lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc. Trong, dòng chảy thời gian, sông Hương đã đi trọn vẹn cuộc sống và lịch sử của dân tộc, của đất nước. Sông Hương vì thế vừa sử thi, vừa trữ tình, vừa là thiên anh hùng ca hào tráng, vừa là khúc tình ca tươi mát, dịu dàng.
Đoạn trích bài bút ký mang đậm phong cách của thể tùy bút vì chất tự phóng túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những cảm xúc sâu lắng. từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một tri thức yêu nước với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc.