Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám dù nhiều khi mang cảm xúc mãnh liệt đến cường tráng vẫn gây cảm giác chênh vênh, hụt hẫng. Bởi tình yêu luôn gắn với nỗi đau, niềm vui song song với nỗi buồn. Bằng cái nhìn mổ xẻ, ta cũng thấy lòng khát sông, ham đời trong Vội vàng bị chẻ đôi thành hai tầng bậc: một cách cảm thụ thế giới mang tính bi kịch và một cách ứng xử trước thế giới mang tính tích cực.
Một bi kịch sự sống trong sự cảm thụ thế giới của Xuân Diệu, cuộc sống được phát hiện ở tính bi kịch. Bi kịch nay là sự giằng xé giữa tình yêu và nỗi đau, giữa cảm xúc và nhận thức.
Trước hết là một tình yêu cuộc sống đến kì lạ. Tình yêu này tràn ngập trong vội vàng. Có một câu hỏi lớn từng thôi thúc loài người tìm lời giải đáp: Vẻ đẹp cuộc sống ở đâu? Đạo Thiên Chúa tìm vẻ đẹp ở thiên đường cao cả. Đạo Phật tìm vẻ đẹp ở cõi Niết bàn bình an. Còn Xuân Diệu, thiên đường nằm ngay trên mặt đất:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này dây khúc tỉnh si
Mỗi sáng sớm Thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Trong cảm thụ độc đáo của Xuân Diệu, cuộc sống giống như Thần Vui đến gõ cửa mỗi ngày. Thế thì hãy reo lên mà đón nó. Điệp ngữ “Này đây” lặp lại bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh ngạc của tác giả vì liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp kì lạ của cuộc sống. Sau mỗi tiếng reo vui, cuộc sống hiện ra, giản dị mà đắm say: cái đắm say tình tứ của ong bướm, yến anh; cái đắm say bát ngát sắc xanh của đồng nội; cái đắm say non tơ của cành lá... Từ những hình ảnh cụ thể, tiếng reo vọt trào lên một cảm xúc tổng hợp và lạ lùng trước thiên nhiên.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Câu thơ đặc sắc lấp lành ba vẻ đẹp độc đáo. “Tháng giêng” là khởi đầu của một năm, khởi đầu của mùa xuân - mùa xuân tươi non mơn mởn là biểu tượng vẻ đẹp cuộc sống. Hình ảnh cặp môi gần gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ đang hé mở đợi chờ. Phép so sánh đã hội tụ mùa xuân với tuổi trẻ thành vẻ đẹp tổng hợp của cuộc sống. Quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu đã đưa cặp môi thiếu nữ vào trung tâm vũ trụ, con người thành chuẩn mực vẻ đẹp của thiên nhiên. Một Xuân Diệu táo bạo, mới lạ nữa xuất hiện trong từ ngon đầy cảm giác nhục thể, tình yêu cuộc sống được huy động cả linh hồn lẫn thể xác. Vẻ đẹp của khổ thơ thật trẻ, thật nồng.
Thơ Xuân Diệu không bao giờ bình yên vì tình yêu luôn vấp phải nỗi đau. Mạch thơ vui đang dào dạt chảy bỗng vấp phải một dấu chấm cắt giữa câu thơ:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Bi kịch cuộc sống dồn tụ trong câu thơ. Bi kịch xuất phát từ một phát hiện triết học về thời gian:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Đây là quan niệm chưa từng có trong cái nhìn truyền thống. Thời gian trung đại vốn được quan niệm là thời gian tuần hoàn, thời gian lặp lại tuần tự (Tháng chạp là tháng trồng khoai – tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà). Nhịp thời gian muôn đời không đổi, tạo nên thế quân bình nội tâm khiến con người ung dung, bình tĩnh đến chậm chạp. Thời gian hiện đại khác hẳn, thời gian tuyến tính một đi không trở lại, nên thời gian tự hủy diệt trong lẽ tồn vong ngắn ngủi, gấp gáp. Nhận thức ấy được Xuân Diệu thể hiện bằng những cặp từ: tới - qua, no - già... Cuộc sống vận động và phát triển trong quá trình vừa khẳng định vừa phủ định, cái phủ định nằm ngay trong cái khẳng định. Đây là những nghiền ngẫm triết học tinh tế và có chiều sâu, thỏa mãn phần nào nhu cầu trí tuệ của người đọc (nhất là người đọc trẻ tuổi ham hiểu biết thơ Xuân Diệu). Chỗ bất cập của Xuân Diệu là quá nghiêng về cái “qua”, cái “già” (tức là cái phủ định) nên quan niệm sống của Xuân Diệu có phần thiếu bình tĩnh, ổn định mà hơi nghiêng ngả về phía “vội vàng” đến hốt hoảng, cuống quýt, tạo nên hơi thở gấp gáp rất riêng trong thơ Xuân Diệu.
Vì vậy, bi kịch trong nhận thức tràn vào tâm hồn, Xuân Diệu nhìn đâu cũng thấy mất mát, cũng thấy chia li:
Mùi tháng năm đang rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn hiệt.
Nỗi đau thấm vào cơn gió, tiếng chim, nhưng đau nhất là tuổi trẻ nhạy cảm đang khát sống.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi.
Nhìn tổng thể, nỗi đau vừa tương phản với tình yêu để tạo thành bi kịch, vừa là kết quả của tình yêu. Bởi vì, nếu không biết yêu cuộc sống thiết tha, sâu sắc đến thế thì làm sao biết xót đau khi hiểu rằng thời gian luôn chảy trôi, không có gì bền vững, nhất là sự hữu hạn của mùa xuân, tuổi trẻ, kiếp người. Cho nên, vội vàng là nỗi đau lớn của một tình yêu lớn.
Một thái độ tích cực trước cuộc sống: trước sự phát hiện tính bi kịch của thời gian, cuộc sống, Xuân Diệu tìm ra hai cách giải quyết riêng.
Bốn câu thơ ở khổ 1 là một khát vọng chống lại quy luật tự nhiên:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng hay đi.
Đây là khổ thơ duy nhất Xuân Diệu dùng thể ngũ ngôn để tạo một giọng điệu gọn, chắc, thể hiện ý chí mạnh mẽ muốn chặn đứng bước chân thời gian. Nhưng ý chí chủ quan làm sao thắng được quy luật khách quan. Vì thế, hơi thơ mạnh mà bên trong vẫn hụt hẫng, bất lực.
Nhưng Xuân Diệu vẫn không chịu đầu hàng. Phải tìm một cách khác đó là tận hưởng cuộc sống. Nội dung chủ yếu của đoạn kết:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Chon no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Hệ thống từ: ôm, riết, say, thâu, cắn là một trường cảm xúc ngày một dâng trào, bộc lộ một khát vọng sống mãnh liệt và cường tráng. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn căng ra chứa hết vũ trụ. Câu kết bài thơ đẹp rực rỡ. Cuộc sống mơn mởn căng tròn đầy hấp dẫn như cái xuân hồng. Thi sĩ ước vọng được cắn vào quả đời ấy để tận hưởng một cách nhục cảm, hết mình mọi hương vị cuộc sống. Chỉ có Xuân Diệu mới tạo ra kiểu cảm xúc táo bạo, mới lạ mà tinh khiết như thế
Sau cái tựa đề Vội vàng kia, ta gặp hai Xuân Diệu, một Xuân Diệu - tình nhân cuồng nhiệt và cường tráng của cuộc sống trần gian với một quan niệm nhân sinh mới mẻ; một Xuân Diệu thi nhân với trí tưởng tượng táo bạo, rạo rực như cặp môi thiếu nữ, mơn mởn tròn căng như cái xuân hồng, mang một quan niệm mĩ học thật hiện đại.