Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Làm sáng tỏ nhận xét: Qua ca dao, người bình dân đã thể hiện những tình cảm thiết tha, cao quý của mình

Thứ tư - 04/03/2020 10:04
Qua ca dao, người bình dân Việt Nam đã thể hiện được những tình cảm thiết tha và cao quý của mình. Lấy dẫn chứng từ những bài ca dao đã được học ở lớp 6 và lớp 7, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
Làm sáng tỏ nhận xét: Qua ca dao, người bình dân đã thể hiện những tình cảm thiết tha, cao quý của mình
Ca dao không những là tiếng nói của khối óc mà còn là tiếng nói trái tim của nhân dân ta. Thật vậy, trong hàng ngàn năm sống, làm việc và chiến đấu, cha ông ta đã bày tỏ tình cảm của mình trong vô vàn câu ca dao. Qua đó, chúng ta cảm nhận được những tình cảm thiết tha và cao quý của nhân dân Việt Nam.

Đầu tiên, tiếng nói trái tim ấy thể hiện khá sinh động tình yêu quê hương đất nước của cha ông ta. Đó là niềm tự hào, gắn bó khắng khít với bao danh lam thắng cảnh của nơi chôn nhau cắt rốn.

Điều này dễ hiểu. Thời xưa, điều kiện đi lại khó khăn, hiểu biết của mỗi người đều có hạn, ít ai hình dung được hết một dải gấm vóc non sông trải đài từ Bắc chí Nam của đất nước mình. Do vậy, mỗi người, ai cũng gắn bó máu thịt với làng mạc quê hương, ruộng lúa, bờ tre, ngọn rau, tấc đất của mình. Chính vì lẽ đó, nếu người dân xứ Lạng tự hào:

“Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em”...

Thì người con xứ Nghệ lại càng hãnh diện về quê hương mình không kém:

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”.

Xưa kia hay ngay cả bây giờ, trong hàng triệu người Việt Nam, có biết bao người chưa một lần đặt chân đến kinh kì, Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội, mảnh đất trái tim của Tổ quốc. Thế nhưng ai lại không xúc động khi nghe những lời ca bất hủ:

“Gió đưa cành trúc ỉa đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.

Dù yêu một cây đa bến nước vô danh, hay yêu bức “họa đồ” của một vùng “non xanh nước biếc” hữu danh nào đó, thì đấy cũng là biểu hiện của tình yêu đất nước, là tình cảm cao quý, thiêng liêng đối với hồn thiêng sông núi Việt Nam,.

Chính từ tình yêu cao cả ấy mà mỗi người Việt Nam xác định được một thái độ đứng đắn trong cư xử với nhau, “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”, tương trợ nhau trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Khi ấy, lòng yêu nước thể hiện ra ở tình cảm đồng bào máu thịt:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy ràng khác giống nhưng chung một giàn”

Bầu và bí tuy là khác giống, nhưng vẫn là nghĩa chị tình em, vì cùng sinh trưởng trên một giàn. Con người đâu khác. Tuy nguồn gốc, hoàn cảnh và địa vị xã hội khác nhau, nhưng mọi người vẫn tồn tại trong cùng một đất nước. Trong quá trình dài lâu sống chung với nhau như thế, tình cảm hình thành, phát triển, trong ngôn ngữ Việt Nam chúng ta có từ đồng bào để chỉ “người trong một nước”, Từ đó, một câu ca dao đầy gợi cảm đã nảy sinh từ nghìn xưa, đến nay ai ai cũng nhớ nằm lòng:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Trong ca dao Việt Nam, tình yêu đất nước đồng bào thiết tha, nồng thắm bao nhiêu thì tình cảm gia đình càng thiết tha nồng thắm bấy nhiêu. Điều này đã rõ. Gia đình từ nghìn xưa vốn là đơn vị cơ bản của đất nước. Gia đình thuận hòa, êm ấm là góp phần làm nên một xã hội phồn vinh, hạnh phúc. Ai cũng biết trong tình cảm gia đình, cao quý nhất là tình cảm của con cái đối với các bậc sinh thành. Ca dao có nhiều câu rất ý nghĩa khi nói về mối quan hệ này:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Và tình cảm mẹ con:

“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”

Vì thế, khi phải rời xa mẹ, có người con nào không khỏi bâng khuâng, đau xót:

“Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau”

Trân trọng tình cảm gia đình, nhân dân ta đề cao tình yêu vợ chồng gắn bó nồng thắm, thủy chung. “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Cả trong cảnh ngộ đói nghèo, khổ cực, người bình dân vẫn yêu đời:

“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon”.

Bởi lẽ họ nghĩ là:

“Thà rằng ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời”.

Trong cuộc sống, dù phải làm việc vất vả, thường xuyên gặp biết bao trở ngại chông gai, hiểm nguy, cùng cực, nhưng từ nghìn xưa, người lao động vẫn luôn tin yêu cuộc sống. Có gì nhọc nhằn hơn công việc một nắng hai sương, dầm mưa dãi nắng, để mong sao có được miếng cơm, manh áo. Thế nhưng, trong cảnh vất vả đó, người lao động vẫn hát lên những lời ca yêu cuộc sống:

“Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”.

Mỗi thành viên một việc làm, kể cả con trâu nữa chứ! Đối với nhà nông, “con trâu là đầu cơ nghiệp”, nên họ yêu thương con trâu biết mấy. Thử nghe lời họ thủ thỉ với con trâu:

“Trâu ơi! Ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.

Gắn bó khắng khít với thiên nhiên, hơn ai hết, người nông dân yêu mến, hành diện trước bức tranh thiên nhiên hào phóng, tươi đẹp, có cả phần xương máu, mồ hôi của cha ông bao đời góp phần tô điểm:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông
Thân em như chẽn lúa dòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Chính lòng yêu đời, niềm lạc quan, đã giúp người lao động vượt lên mọi gian khổ để vui sống, vững tin:

“Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng”.

Cho dù phải lâm vào cảnh đời đau thương tủi cực, phải lỡ bước sa chân, người nông dân vẫn hướng thiện, trước sau vẫn giữ vẹn một tấm lòng nhân hậu thủy chung, nào khác con cò trong câu ca dao, dù chết vẫn muốn được chết trong sạch, thanh cao:

“Có xáo thời xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.

Bởi vậy, có người so sánh vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân với hoa sen:

“Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Là phương tiện để bày tỏ tiếng nói trái tim, nói chung, ca dao đã thể hiện khá sinh động, tuy chưa phải là đầy đủ và toàn diện những sắc thái tình cảm thiết tha và cao quý của nhân dân lao động, nhưng đủ cho ta thấy một đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của những người đã sản sinh ra nó.

Ngày nay đọc lại, ai cũng thấy ngoài giá trị nghệ thuật văn chương, ca dao còn có giá trị nhân văn to lớn.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây