Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Hiểu và nghĩ về đoạn Sau phút chia li (trích Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn).

Thứ hai - 16/09/2019 13:06
Đặng Trần Côn quê gốc ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh và mất khoảng trong nửa đầu thế kỉ XVIII. Thuở nhỏ, ông theo đời nghiệp nho, học rất chăm và rộng. Đặng Trần Côn từng đỗ Hương cống nhưng không đậu thi Hội. Sau đó, ông nhậm chức Huấn đạo ở một trường phủ. Một thời gian sau, ông đổi sang làm Tri huyện Thanh Oai, nay thuộc tĩnh Hà Tây. Trước khi mất, ông còn được về kinh thụ chức Ngự sử đài chiếu khán.
Về sáng tác, đáng kể nhất phải nhắc đến Chinh phụ ngâm khúc. Ngoài ra, Đặng Trần Côn cũng có sáng tác một vài văn phẩm khác nhưng chủ yếu mang tính tầm chương trích cú, ít có giá trị văn chương.

Chinh phụ ngâm khúc nguyên văn chữ Hán của Đặng Trần Côn. Nhưng tác phẩm đã được diễn Nôm theo thể song thất lục bất, khá phổ biến trong giai đoạn từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX với các tác giả như Đoàn Thị Điểm, Phan Huy ích, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Nhạ,...

Thể song thất lục bát được cấu tạo như sau:

Một cặp thơ 7 chữ (song thất) đi kèm một cặp lục bát. Số câu trong bài không hạn chế.

Nhịp trong hai câu thất là nhịp 3/4 (khác với nhịp trong thơ thất ngôn Đường luật là nhịp 4/3).

Vần nhịp trong câu lục bát của thể thơ này cũng giống như vần nhịp trong thể lục bát của ca dao (vần chân hoặc vần lưng, nhịp 2/2/2... hoặc 4/4).

Chữ thứ 7 của câu thất trên hiệp vần với chữ thứ 5 của câu thất dưới. Chữ thứ 7 của câu thất dưới lại hiệp vần với chữ thứ 6 của câu lục. Chữ thứ 8 của câu bát lại hiệp vần với chữ thứ 5 của câu thất tiếp theo.

Toàn bộ đoạn trích đều nhằm hướng đến khắc sâu nỗi sầu chia li của chàng và thiếp, nhưng cũng có thể dựa vào mức độ tăng trưởng của nỗi sầu và nghịch chướng chia li để chia đoạn trích thành ba phần, mỗi phần bốn câu thơ.

Trong khổ thơ đầu (4 câu), tác giả đã không chỉ dừng phép đối (chàng - thiếp, đi - về), mà còn kết hợp với phép lặp quan hệ từ (thì) ở mỗi câu để so sánh và nhấn mạnh đến tuyệt đối hoá tính chất của sự chia biệt. Hơn nữa, các hình ảnh “Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh” như đẩy không gian rộng ra vô tận: người vừa chia cách đã như biệt vô âm tín.

Trong khổ thơ thứ hai (4 câu tiếp), tác giả tiếp tục sử dụng phép đối ngữ (chàng - thiếp, ngoảnh lại - trông sang), đảo địa danh (bến Tiêu Tương - cách Hàm Dương, cây Hàm Dương - cách Tiên Tương), điệp từ,... để diễn tả nỗi sầu quay quắt của nhân vật trữ tình. Đoạn thơ nói lên một nghịch cảnh: cuộc sống cách xa nhưng tâm. hồn thì không xa cách. Thế nhưng, muốn gần gũi mà không thể nào gần gũi được, muốn gắn bó mà phải chia li.

Nỗi sầu như thể nhân lên bất tận, trong khổ thơ thứ ba, điệp từ (cùng) được thể hiện ở dạng đồng hướng (chẳng thấy). Cái màu “mây biếc”, “ngàn núi xanh” vừa mới ở trên thoắt bây giờ đã chỉ “thấy xanh xanh”. Thấy mà không thấy, bởi vì cái màu sắc được điệp (và cũng là láy) ấy chỉ là “những mấy ngàn dâu”. Thêm một lần nữa, không chỉ lặp từ, mà còn kết hợp lặp với đảo ngữ: “Ngàn dâu xanh ngắt một màu”, câu thơ diễn tả điều “thấy” ấy là vô vọng, và cuối cùng, một câu hỏi tu từ hỏi chính là trả lời về nỗi sầu tràn ngập cả “lòng chàng” “ý thiếp”.

Đoạn trích nổi bật ở nghệ thuật sử dụng điệp ngữ:

Điệp ngữ “chàng” “thiếp” (được kết hợp ngược chiều trong câu “chàng thì đi... thiếp thì về” hoặc được kết hợp chéo trong cụm từ “lòng chàng ý thiếp”).

Các điệp ngữ Tiêu Tương - Hàm Dương, cùng - cùng, ngàn dâu - ngàn dâu, xanh ngắt - xanh ngắt.

Việc kết hợp các điệp ngữ một cách tài tình, đưa đến hiệu quả:

Tạo nhạc điệu trầm buồn cho thơ, phù hợp với nỗi sầu chia cách của người chinh phụ.

Góp phần diễn tả tính chất hai mặt của nỗi sầu chia li: gắn bó mà phải xa cách.

Tóm lại, bằng nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, đặc biệt là việc sử dụng các biện pháp điệp ngữ rất tài tình, kết hợp với giọng điệu trầm buồn, tác giả đã gửi vào đoạn thơ cả một nỗi sầu da diết của người chinh phụ trong phút chia li. Nỗi sầu ấy vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa vừa thể hiện cái khát khao hạnh phúc của người phụ nữ xưa.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây