Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Em hãy đóng vai cô kĩ sư nông nghiệp trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long để kể lại câu chuyện

Thứ ba - 02/03/2021 09:14
Em hãy đóng vai cô kĩ sư nông nghiệp trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long để kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa ba người: cô gái, hoạ sĩ già và anh thanh niên trên trạm khí tượng Yên Sơn.

I. DÀN Ý

1. Mở bài:
- Chuyến xe khách vừa đi qua Sa Pa.
- Khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và thơ mộng của Sa Pa.
2. Thân bài:
- Bác lái xe giới thiệu anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn với hoạ sĩ và cô gái.
- Cuộc gặp gỡ giữa ba người: Cô gái kĩ sư, hoạ sĩ già và anh thanh niên diễn ra ở trạm khí tượng. Anh thanh niên cắt bó hoa tươi tặng cô gái rồi kể về cuộc sống và công việc của mình.
- Cô kĩ sư và hoạ sĩ già xúc động trước những suy nghĩ cao đẹp và sự cống hiến thầm lặng của anh thanh niên đối với cuộc sống lao động, chiến đấu của dân tộc.
- Hoạ sĩ đã vẽ chân dung của anh thanh niên, ông đã tìm thấy ở anh nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Ông hứa sẽ quay trở lại để có điều kiện tìm hiểu kĩ hơn về cuộc sống của anh.
3. Kết bài:
- Cuộc gặp gỡ đặc biệt đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng mỗi người.
- Suy nghĩ của hoạ sĩ già về anh thanh niên và lớp trẻ.
 

II. BÀI LÀM

Bài làm 1:
Đó không phải lần đầu tiên tôi rời Hà Nội - quãng đời học sinh, sinh viên của tôi đã ghi dấu bao lần đến với Huế, Quảng Trị, Bắc Kạn, Thái Nguyên,... - nhưng lần này đến Lai Châu, tôi có cảm giác thật lạ. Tôi mới ra trường, đây là chuyến đi nhận công tác của tôi. Bước qua cuộc đời học trò chật hẹp để bước vào cuộc sống mới khiến tôi không khỏi ngỡ ngàng. Trên chặng đường từ Hà Nội lên Lai Châu, tôi đã được quen biết những con người thuộc những thế hệ khác nhau. Họ đã khiến tôi thấy cuộc sống này rộng lớn và đẹp đẽ biết mấy. Đặc biệt là quãng đường tôi đến Sa Pa. Sa Pa, nghe cái tên người ta đã muốn nghỉ ngơi nhưng ở đó có những con người làm việc hăng say, họ nguyện hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Họ để lại ấn tượng đẹp trong lòng tôi cũng như bất kì ai đặt chân lên mảnh đất này.

"Chỉ vài cây số nữa là tới Sa Pa" - bác lái xe nói vậy. Tôi bắt đầu háo hức, tò mò, mắt nhìn xa ngoài cửa kính một cách lặng lẽ mà say mê.

Sau cuộc nói chuyện, giao lưu vui vẻ giữa tôi - bác lái xe - bác hoạ sĩ già thì mọi người bỗng nín bặt, vì cảnh trước mắt bỗng hiện lên đẹp một cách kỳ lạ... Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe...

Giữa lúc đó, bác lái xe cho dừng xe để mọi người nghỉ ngơi. Riêng với tôi và bác hoạ sĩ, ông quay sang nói một cách bí hiểm: Sẽ giới thiệu cho chúng tôi một trong những người "cô độc nhất thế gian". Bác lái xe này thật vui tính khi đặt cho người đó cái tên như vậy. Bác lại còn khẳng định với bác hoạ sĩ - một người say mê nghệ thuật rằng: "Thế nào bác cũng thích vẽ hắn". Không hiểu sao nói đến đây, bác lái xe lại liếc nhìn tôi, khiến cho tôi bất giác đỏ mặt. Cái nhìn tôi cảm nhận có hàm ý sâu xa.

Theo lời bác lái xe thì đó là một anh chàng hai mươi bảy tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Khi mới lên nhận việc, chưa quen với không khí toàn rừng và cây ở đây nên anh ta "thèm người'", đến mức chắn ngang khúc gỗ ngang đường để kiếm cớ có người nói chuyện.

- Kia, anh ta kia! - Bác lái xe chỉ.

Tôi và ông hoạ sĩ già thực sự xúc động và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy trước mắt chúng tôi là người con trai tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ.

Người con trai đưa cho bác lái xe một gói nhỏ - củ tam thất - một thứ cây của vùng núi. Còn bác lái xe thì trao cho anh quyển sách. Hai người nói với nhau điều gì đó, bác lái xe thì rạng rỡ cười còn anh thanh niên kia cũng mừng quýnh. Tôi có cảm giác hành động đó của hai người không đơn thuần chỉ là tình cảm giữa hai người quen biết mà là tình cảm của những người trong gia đình. Thì ra, vợ bác lái xe mới ốm dậy, anh chàng kia gửi biếu ít tam thất "của nhà trồng được" còn bác lái xe gửi sách mua giúp anh ta đọc cho đờ buồn và đỡ nhớ cuộc sống binh thường!

Đứng một lát, bác lái xe dắt tay người thanh niên lại chỗ ông hoạ sĩ và tôi để giới thiệu. Anh mời chúng tôi lên thăm ngôi nhà nơi anh ở. Sau đó, cùng như bao chàng thanh niên khác anh đỏ mặt, luống cuống rồi xin về nhà trước. Không chỉ riêng tôi, bác hoạ sĩ hay bất kỳ ai cũng sẽ nghĩ rằng anh chạy về trước để dọn dẹp nhà cửa, hay gấp chăn màn vì... thanh niên mà! Đã vậy lại ở một mình nên khó tránh khỏi điều khó nói ấy.

Nhưng thật bất ngờ! Tôi nhận thấy vẻ ngạc nhiên của bác hoạ sĩ khi bước lên bậc thang bằng đất thấy người con trai đang hái hoa. Còn tôi chỉ "ồ" lên một tiếng. Sau gần hai ngày, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, đứng trong mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, bỗng nhiên lại gập hoa đơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong... ngay lúc dưới kia là mùa hè, đột ngột và mừng rỡ, quên mất cả e lệ, tôi chạy đến bên người con trai đang cắt hoa. Anh rất tự nhiên như với một người bạn đã quen trao bó hoa đã cắt cho tôi, và cũng rất tự nhiên, tôi đỡ lấy. Anh bảo:

- Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tuỳ ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết nếu cô thích. Tôi không biết kỷ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ Tết, và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.

Người con trai nói to những điều đáng ra người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều người ta ít nghĩ. Việc ấy làm cho tôi và bác hoạ sĩ cảm động và cuốn hút ngay. Tôi ôm bó hoa vào ngực, bạo dạn nhìn thẳng vào mặt anh. Anh thanh niên bắt gặp cái nhìn đó, phủi vội giọt mồ hôi trên sống mũi mỉm cười, hạ giọng hỏi:

- Cũng đoàn viên, phỏng?
- Vâng - Tôi nói.
- Thôi, chấm dứt tiết mục hái hoa - Người con trai bất chợt quyết định - Bác lái xe chỉ cho ba mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm...

Anh bắt đầu kể về công việc của mình. Rằng công việc của anh là đo gió. đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động địa cầu để dự báo thời tiết. Rồi cả những khó khăn, trở ngại: những đêm mưa bão, bão tuyết, trời nắng, mưa. Nhưng anh vẫn làm việc rất nghiêm túc đến từng giờ, từng phút. Bởi có lẽ anh hiểu được công việc của anh quan trọng như thế nào...

Tôi vẫn đứng đó, ôm bó hoa và lắng tai nghe. Anh bỗng dừng lại. Trời! Mười phút sao mà trôi nhanh quá!

- Anh nói nữa đi - Bác hoạ sĩ giục.
- Báo cáo hết! - Người con trai vụt trở lại giọng vui vẻ.
- Còn hai mươi phút nữa thôi. Bác và cô vào nhà. Chè đã ngấm rồi đấy.

Thì giờ ngắn ngủi còn lại thúc giục chính chúng tôi. Chúng tôi bước vào căn nhà ba gian sạch sẽ và gọn gàng. Bác hoạ sĩ hứa sẽ quay trở lại và kể anh nghe chuyện dưới xuôi.

Bác vừa nhâm nhi chén chè và nghe anh giải thích cụm từ "cô độc nhất thế gian". Rằng còn có người cô độc hơn anh. Đó là anh bạn trên trạm đỉnh Phan xi păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia còn một mình hơn anh.

Tôi đang đọc cuốn sách trên bàn của anh và vẫn lắng tai nghe hai bác cháu họ nói chuyện.

Càng nói chuyện với chàng trai bác hoạ sĩ càng có vẻ thích thú. Bác đề nghị vẽ anh. Nhưng anh từ chối. Bởi theo anh - anh không phải là người đáng để vẽ. Anh khiêm tốn giới thiệu người khác. Đó là ông kỹ sư ở vườn rau dưới Sa Pa. Nhưng cũng may bằng mấy nét, hoạ sĩ đã ghi xong lần đầu gương mặt của người thanh niên.

Người thanh niên này làm tôi và bác hoạ sĩ suy nghĩ nhiều quá. Những điều cùng nghe cộng với những điều tôi khám phá thấy trên trang sách đang đọc giở làm cho tôi bàng hoàng. Có phải vì ánh sáng trong quyến sách rọi sáng làm tôi hiểu thêm về cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt vời của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, về con đường tôi đi tới?

Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo tôi trong chuyến thứ nhất ra đời mà vì một bó hoa khác, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm tôi. Tôi không muốn những khoảnh khắc này trôi đi vô nghĩa trong đời mình. Tôi mong muốn để lại điều gì thật ý nghĩa nơi này... Tôi khẽ mở khoá chiếc xắc nhỏ bên mình...

- Và thế là chì còn năm phút nữa.

Bác hoạ sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Tôi cũng đứng lên đi ra chỗ bác.

- Ô! Cô quên chiếc mùi xoa đây này!

Anh thanh niên vừa vào kêu lên, anh lấy chiếc khăn tay vo tròn cặp giữa cuốn sách tới trả cho tôi. Cái món quà mà tôi cho là một chút cỏn con, dịu dàng nhưng... Tôi cúi đầu ngượng ngùng không nhìn thẳng vào anh nhận lại chiếc khăn và quay đi.

Bác hoạ sĩ và anh lưu luyến rồi hẹn ngày gặp lại. Còn tôi - tôi chìa tay cho anh nắm, cẩn trọng rõ ràng như người ta cho nhau cái gì chứ không phải cái bắt tay. Tôi nhìn anh, cái nhìn như mãi mãi không bao giờ gặp lại.

- Chào anh.

Tôi không biết cảm giác lúc đó là gì nữa. Điều cuối cùng anh dành sự quan tâm cho mọi người đó là anh ấn cái làn vào tay bác hoạ sĩ rồi nói là để cho mọi người ăn trưa.

Chúng tôi ra về, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực làm cho bó hoa càng rực thêm làm cho tôi cảm thấy mình rực rỡ theo.

Chuyến đi này là một chuyến đi thật khó quên trong đời tôi. Tôi đã gặp được những con người thật đẹp, thật cao cả. Họ làm cho tôi thấy yêu đời hơn, thấy tự tin với công việc của mình hơn và anh thanh niên để lại ấn tượng sâu đậm về một thế hệ trẻ như tôi - anh đã cống hiến hết mình cho phong trào ba sẵn sàng. Anh sống bên cái vẻ bề ngoài "lặng lẽ" nhưng bên trong thì rạo rực của vùng đất dấu yêu, thơ mộng này.

Bài làm 2:
Chiếc xe khách đang chầm chậm lăn bánh trên con đường cheo leo uốn lượn quanh co. Bỗng người lái xe quay sang hỏi ông hoạ sĩ ngồi bên cạnh tôi: “Chúng ta vừa qua Sa Pa đấy, bác không nhận ra ư?”. Hoạ sĩ già mỉm cười đáp: “Có. Tôi nhận ra Sa Pa bắt đầu với những rặng đào và những đàn bò lang cổ đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường. Chỗ ấy là Tả Phình phải không bác?”.

Người lái xe không hỏi gì nữa. Tôi và hoạ sĩ cũng im lặng vì khung cảnh trước mắt bỗng hiện ra với vẻ đẹp kì lạ. Nắng bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bàng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường, luôn cả vào gầm xe. Giữa lúc đó, xe bỗng phanh kít lại. Khách trên xe xôn xao kêu lên: “Cái gì thế?”. Bác lái xe bảo là dừng lại một lúc để lấy nước và cho khách ăn lót dạ.

Trong lúc mọi người vui vẻ trò chuyện, bác lái xe quay sang nói nhỏ với hoạ sĩ: “Tôi sắp giới thiệu với ông một người cô độc nhất thế gian. Thế nào ông cũng thích vẽ hắn cho mà xem!”. Nói đến đây, tự nhiên bác nhìn tôi, khiến tôi đỏ mặt. Rồi bác kể: “Một thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Cách đây bốn năm, có hôm xe tôi đi đến đây thì thấy một khúc cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh thanh niên ở đâu chạy đến, cùng tôi và hành khách lăn khúc cây sang ven đường. Tôi hỏi không biết ai mà lại đẩy cây ra giữa đường thế này thì anh ta đỏ mặt. Thì ra vì mới lên đây nhận công tác, một mình sống trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá nên anh ta kiếm kế dừng xe lại để gặp chúng tôi, được nhìn và nói chuyện một lát. Kìa, anh ta kia!”.

Tôi trông theo hướng tay bác lái xe thì thấy một người con trai tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ từ sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ. Anh ta đưa cho bác lái xe một gói nhỏ. Bác lái xe hỏi là cái gì thì anh ta bảo là gửi biếu vợ bác gói củ tam thất để ngâm rượu uống cho khoẻ. Bác lái xe cũng rút từ túi xách ra một gói giấy, tươi cười nói: “Đây là cuốn sách tôi mua hộ anh”. Người con trai nhìn khắp lượt hành khách, vẻ hân hoan lộ rõ. Bác lái xe dắt anh đến trước mặt hoạ sĩ: “Tôi giới thiệu với anh một hoạ sĩ lão thành nhé. Còn cô gái này là kĩ sư nông nghiệp. Anh đưa khách về nhà đi! Tuổi già cần nước chè. Ở Lào Cai đi sớm quá không kịp uống. Anh hãy đưa ra cái món chè pha nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh”.

Anh thanh niên đỏ mặt, luống cuống cười: “Vâng! Mời họa sĩ và cô lên chơi! Nhà cháu ở kia kìa! Lên cái bậc cấp kia là tới đấy. Nước sôi đã có sẵn, nhưng để cháu về trước một tí. Bác và cô lên ngay nhé!”. Nói xong, anh ta chạy vụt đi, cũng tất tả vội vàng như lúc đến. Tôi thầm nghĩ chắc là anh ta về trước để kịp thu dọn nhà cửa. Con trai độc thân thường hay thiếu ngăn nắp.

Nhưng khi đến nơi, tôi ngạc nhiên ồ lên một tiếng khi thấy anh ta đang hái hoa. Sau gần hai ngày ngồi ô tô, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, giờ đây đứng trông mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, tôi lại gặp hoa lay-ơn, hoa thược dược... vàng, đỏ, tím, hồng... rực rỡ. Quên cả e thẹn, tôi chạy đến bên anh. Tự nhiên như đã quen nhau từ lâu, anh trao bó hoa cho tôi và nói: “Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào, cắt hết cũng được, nếu cô thích. Tôi không biết kỉ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ Tết và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay”. Anh ta đã nói to những điều lẽ ra người ta chỉ nghĩ, điều đó làm cho tôi và hoạ sĩ già cảm động thật sự. Tôi ôm bó hoa vào lòng rồi nhìn thẳng vào đôi mắt trong sáng của anh. Anh quệt vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười và hỏi nhỏ: “Cũng đoàn viên phỏng?”. Tôi vâng rất nhẹ và gật đầu.

Bất chợt, anh tuyên bố chấm dứt tiết mục cắt hoa. Anh kể cho chúng tôi nghe về công việc hằng ngày của anh là quanh quẩn bên mấy chiếc máy đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất... để ghi chép các thông tin, báo về trung tâm bằng máy bộ đàm. Trên cơ sở ấy, trung tâm sẽ dự báo thời tiết, phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Anh còn bảo là ban đêm không cần nhìn máy, chỉ nhìn gió lay lá hay nhìn trời là có thể đoán được mây, được gió. Đêm nào anh cũng phải ghi và báo về trung tâm lúc một giờ sáng. Xách đèn ra vườn, gió và tuyết như chỉ chực đợi người là ào ào xô tới. Cái im lặng lúc đó thật dễ sợ, nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung... Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như lửa cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.

Anh thanh niên ngừng nói. Hoạ sĩ thoáng bối rối. Có lẽ ông đã bắt gặp một con người mà ông ao ước được biết. Chỉ cần một nét hiện ra trên gương mặt người ấy là đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài của ông.

Hoạ sĩ háo hức giục anh thanh niên kể tiếp, nhưng anh cất giọng vui vẻ: “Báo cáo hết!”, rồi mời chúng tôi vào nhà uống trà. Hoạ sĩ đảo mắt nhìn quanh căn nhà nhỏ và ngồi xuống ghế. Căn nhà ba gian sạch sẽ, ngăn nắp. Một chiếc giường con, một bàn học, một giá sách. Tôi đến trước chiếc bàn học, lật xem bìa cuốn sách anh đang đọc dở rồi để lại như cũ. Anh rót nước mời chúng tôi. Hoạ sĩ già nhấp chén trà nóng toả hương thơm ngát, tỏ vẻ thích thú, rồi tự tay rót thêm chén nữa và nói: “Ta thoả thuận thế này: Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể anh nghe. Tôi sẽ trở lại, hứa danh dự đấy. Tôi cũng muốn biết cái im lặng lúc một giờ sáng chon von trên cao nó thế nào. Bây giờ có cả ba chúng ta đây, anh hãy kể chuyện anh đi! Sao người ta bảo rằng anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh “thèm” người lắm?”.

Anh thanh niên bật cười khanh khách, bảo đấy là những từ của bác lái xe. Bác ấy nói thế chưa đúng vì bạn anh ở trạm đặt trên đỉnh núi Phăng Xi Păng cao ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét mới đúng là “một mình”. Mà làm khí tượng thì ở cao như thế mới là lí tưởng.

Rồi anh hạ giọng như tâm sự: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất. Còn “thèm” người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu? Mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế đấy. Bác lái xe đi về Lai Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi, lâu dần thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hằng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: Đấy, bác cũng chẳng "thèm" người là gì?.

Anh quay sang nhìn tôi: “Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi người viết một vẻ”. Rồi anh say sưa kể về những đồng nghiệp của mình đang âm thầm ngày đêm cống hiến cho đất nước. Theo anh thì họ đáng quý biết bao!

Trong thời gian ngắn ngủi, hoạ sĩ đã nhanh tay phác hoạ chân dung anh thanh niên vào sổ tay. Còn tôi, tôi cũng hiểu thêm về cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của anh, về thế giới riêng của những con người mà anh vừa kể. Tôi muốn có một cái gì đó để tặng anh, nói như anh là để kỉ niệm cuộc gặp gỡ đặc biệt này. Một cái cỏn con gì đó có thể biến thành một chút dịu dàng, một chút dũng cảm trong cuộc sống của anh, ví dụ như cuốn sách hay món trang trí nhỏ chẳng hạn. Tiếc thay, trong túi xách của tôi giờ đây chẳng có một vật gì như thế!

“Trời ơi! Chỉ còn năm phút!”. Anh thanh niên kêu lên tiếc rẻ. Anh chạy ra sau nhà rồi trở vào ngay, tay cầm một cái làn. Hoạ sĩ già cũng tặc lưỡi, miễn cưỡng đứng dậy. Tôi đặt lại chiếc ghế, thong thả đến chỗ ông. Anh thanh niên nhắc rằng tôi bỏ quên chiếc khăn mùi xoa và đưa cho tôi. Tôi nhận lấy chiếc khăn rồi vội quay đi. Đến bậu cửa, ông hoạ sĩ chụp lấy tay anh lắc mạnh: “Tôi sẽ quay trở lại. Chắc chắn thế. Tôi ở với anh ít hôm, được chứ?”. Đến lượt tôi chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng như người ta trao cho nhau một cái gì chứ không phải là cái bắt tay rồi nhìn thẳng vào mắt anh và nói lời từ biệt. Anh ấn vào tay hoạ sĩ chiếc làn đựng trứng gà, bảo là dành cho chúng tôi và bác lái xe, xin lỗi không tiễn được vì đã đến giờ làm việc. Anh mỉm cười chào và dặn hoạ sĩ nhớ quay trở lại.

Tôi và hoạ sĩ bước xuống đến mặt đường, ngước nhìn lên thì không thấy bóng anh đâu nữa. Có lẽ anh đã vào nhà hoặc ra vườn khí tượng. Hoạ sĩ xách làn trứng, còn tôi ôm bó hoa to. Lúc này, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Chúng tôi lững thững đi về phía chiếc xe. Hoạ sĩ lẩm bẩm: “Thanh niên bây giờ lạ thật! Các anh chị cứ như là con bướm. Mà mới mười một giờ, đã đến giờ “ốp” đâu? Tại sao anh ta không tiễn mình đến tận xe nhỉ?”. Tôi liếc nhìn ông, tự dưng trong lòng hồi hộp nhưng vẫn giữ im lặng. Có lẽ, không bao giờ tôi quên cuộc gặp gỡ bất ngờ và đặc biệt này.
​​​​​

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây