I. Dàn ý
1. Mở bài
* Giới thiệu vài nét tác giả và tác phẩm:
- Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Những tác phẩm của chị viết về cuộc sống, chiến đấu dũng cảm và hi sinh thầm lặng của lực lượng thanh niên xung phong Trường Sơn đã gây được sự chú ý và tình cảm yêu mến của bạn đọc.
- Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng cùng tinh thần lạc quan cách mạng của những cô gái mở đường Trường Sơn giữa trọng điểm ném bom ác liệt của máy bay Mĩ.
2. Thân bài
* Tóm tắt nội dung:
Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát mặt đường (Thao, Định, Nho). Nhiệm vụ của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đánh dấu và phá bom nổ chậm, ước chừng số lượng đất đá để lấp hố bom... Công việc hết sức nguy hiểm vì phải đối mặt với cái chết, nhưng họ vẫn sống hồn nhiên, thanh thản và lạc quan, đúng như tuổi trẻ đáng yêu của họ. .
* Phân tích:
- Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm, giữa vùng trọng điểm tập trung bom đạn của giặc Mĩ bắn phá tuyến đường ra mặt trận.
- Ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm đánh phá của máy bay. Sau mỗi trận bom, họ phải lao ngay ra trọng điểm để làm nhiệm vụ.
- Họ phải mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự bình tĩnh, sáng suốt và dũng cảm.
- Với ba cô gái, công việc nguy hiểm ấy đã thành chuyện bình thường hằng ngày.
+ Đời sống tâm hồn phong phú, đáng yêu:
- Cả ba cô gái đều là người Hà Nội, tính cách mỗi người mỗi khác nhưng họ có chung những phẩm chất tốt đẹp của thanh niên xung phong tiền tuyến gan dạ, dũng cảm, không sợ gian khổ, hi sinh, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
- Đoàn kết, gắn bó trong tình đồng đội; dễ xúc động; hay mơ mộng, thích làm đẹp cho cuộc sống của mình, dù là giữa bom đạn khốc liệt, dữ dội.
- Nhân vật Phương Định là cô gái trẻ trung, xinh đẹp... tập trung những nét đáng yêu, đáng khâm phục của lực lượng nữ thanh niên xung phong.
3. Kết bài
- Người đọc có thể tìm thấy chân dung tinh thần đẹp đẽ, phong phú của thế hệ trẻ Việt Nam thời đánh Mĩ qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
- Tác giả không rơi vào tình trạng minh hoạ giản đơn mà đã miêu tả và thểhiện đời sống nội tâm của họ với những nét tinh tế, sâu sắc và giàu nữ tính.
II. Bài làm
Bài làm 1:
Lê Minh Khuê cây bút trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Các tác phẩm của bà xoay quanh cuộc sống, chiến đấu của những cô thanh niên xung phong. Những ngôi sao xa xôi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của bà, kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô gái trên tuyến đường Trường Sơn.
Truyện được sáng tác năm 1971 khi chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra vô cùng khốc liệt. Truyện được viết về công cuộc chiến đấu của thanh niên xung phong, bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.
Nhan đề của tác phẩm giàu ý nghĩa, và giá trị biểu đạt. Trước hết nó là một hình ảnh tả thực những vì tinh tú trong vũ trụ bao la, tỏa ánh sáng dịu nhè, lung linh và lấp lánh. Hình ảnh ngôi sao được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm: Ngôi sao vàng trên mũ của chiến sĩ, ngôi sao ở thành phố, ngôi sao trong truyện cổ tích,… Không chỉ vậy, nhan đề còn có ý nghĩa biểu tượng, khiến ta nhớ về vẻ đẹp của những cô thanh niên xung phong với tâm hồn mơ mộng, trong sáng, bay bổng và phẩm chất cách mạng sáng ngời. Còn cái “xa xôi” có chăng chính là cao điểm – nơi các cô đang chiến đấu. Trong cuộc kháng chống Mĩ, những cô gái nhỏ bé, lặng lẽ, khiêm nhường ấy chính là những ngôi sao sáng của núi rừng Trường Sơn.
Nho, Thao, Phương Định còn là những cô gái rất trẻ, họ sống chiến đấu trên “một cái hang lớn dưới chân cao điểm” giữa vùng trọng điểm của tuyến đường Trường Sơn – nơi tập trung nhiều nhất bom đạn của kẻ thù. Nơi họ sống chỉ có tàn tích của chiến tranh: đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn, hai bên đường không có lá xanh, chỉ có những thân cây bị tước khô cháy, những cây lớn nằm lăn lóc, những tảng đá to, những thùng xăng hoặc những thành ô tô méo mó, han rỉ nằm trong đất. Tưởng chừng như mọi thứ bị hủy diệt, không có dấu hiệu của sự sống. Hoàn cảnh sống ấy đã cho ta thấy cái khốc liệt của chiến tranh, sự khó khăn gian khổ mà con người phải trải qua.
Công việc của họ đặc biệt nguy hiểm, họ phải quan sát địch ném bom, sau mỗi lần đó họ lại lao ra trọng điểm đo khối lượng đất đá bị đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và phá bom. Phải thường xuyên đối mặt với cái chết. Họ bị bom vùi là chuyện bình thường “Có khi bò lên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng trắng lóa trên gương mặt lem luốc” . Công việc thường ngày ấy khiến thần kinh họ luôn căng thẳng, đòi hỏi phải có sự bình tĩnh, dũng cảm.
Là những cá nhân, với đời sống tâm hồn và tình cảm khác nhau, nhưng ở ba cô gái này đều mang những điểm chung. Trước hết, họ có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ: Có lệnh là họ lên đường, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ phá bom mở đường cho những đoàn xe nối đuôi nhau ra tiền tuyến và về đích an toàn. Trong khi phá bom họ chỉ quan tâm đến một điều duy nhất: Liệu bom có nổ không, nếu không thì làm cách nào để bom nổ. Như vậy, với họ nhiệm vụ còn quan trọng hơn tính mạng bản thân.
Không chỉ vậy, họ còn gan dạ, dũng cảm, không sợ hy sinh. Cuộc sống trong bom đạn chiến tranh cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào, song họ chưa bao giờ thấy ám ảnh, chưa bao giờ phải trằn trọc đêm đêm, cái chết đối với họ là một khái niệm rất mờ nhạt, không cụ thể. Lòng dũng cảm còn thể hiện qua sự kiên cường trong chiến đấu: Chị Thao rất gan dạ, cái cũng phải phát bực về cái tính bình tĩnh đến lạ của chị. Nho khi máu thấm ra đỏ đất, vẫn bình tĩnh không một tiếng kêu, không cho ai được khóc, không cho ai gọi về đơn vị. Phương Định bình tĩnh gan dạ giữa khoang đất của địch, nhất định không chịu đi khom.
Sống với nhau, cùng nhau làm việc, giữa họ còn hình thành tình đồng đội keo sơn, gắn bó. Tình cảm ấy nằm trong sự chân thành, dứt khoát khi ai cũng muốn giành phần nguy hiểm, gian khổ về mình. Phương Định lo lắng, bồn chồn khi chờ Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm với nỗi lo lắng hai bạn không về. Tình cảm ấy nằm trong sự lo lắng, cử chỉ chăm sóc khi Nho bị thương, Phương Định tận tình cứu chữa, chị Thao luống cuống không cầm được nước mắt.
Dù can trường, dũng cảm nhưng ở họ cũng có những nét rất hồn nhiên, rất con gái. Họ là ba cô gái trẻ có nội tâm phong phú. Ở họ có những nét chung của cô gái hay mơ mộng, dễ xúc động, dễ vui, dễ buồn. Họ cũng rất nữ tính, thích làm đẹp dù ở chiến trường khói lửa. Nho thích thuê thùa, Thao chăm chép bài hát, PĐ thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ màng và thích hát. Cuộc sống ở chiến trường rất khó khăn nhưng họ vẫn luôn bình tĩnh, lạc quan, yêu đời. Trong hang vẫn vang lên tiếng hát của ba cô gái và những dự định về tương lai. Chiến tranh bom đạn không thể phá đi được những giây phút mơ mộng ấy. Đó còn là thời gian để nhớ về gia đình, về những kỉ niệm, là niềm vui của Nho và Phương Định khi thấy những cơn mưa đá.
Dù có những điểm chung, nhưng bên cạnh đó, họ vẫn có những nét cá tính riêng. Nho hồn nhiên, mơ mộng, sở thích ăn kẹo, tắm suối, dáng vẻ nhỏ bé “mát mẻ như một cây kem”. Chị Thao là tổ trưởng, lớn tuổi nhất, chị từng trải những cũng không thiếu những khát khao, rung động của tuổi trẻ, ưa làm đẹp. Đôi lông mày tỉa nhỏ như cái tăm, áo lót cái nào cũng thêu chỉ màu. Ở chị có những nét tính cách tưởng như mâu thuẫn: Trong công việc chị rất cương quyết, táo bạo như có ai ngờ con người ấy lại sợ máu và vắt đến tái mặt. Trong con người chị có sự kết hợp giữa cái nhút nhát, yếu đuối của một người con gái với cái bản lĩnh của một chiến sĩ nơi chiến trường ác liệt. Phương Định là cô gái xinh đẹp, có đời sống nội tâm phong phú, tính cách hồn nhiên, hay mơ mộng, hay sống với kỉ niệm thời thiếu nữ ở thành phố. Cả ba cô gái đều có những nét tính cách đẹp đẽ, đáng yêu. Họ là những con người từ cuộc sống thực bước vào tác phẩm một cách tự nhiên, sinh động, họ hiện lên thật bình dị.
Lời văn dung dị, nghệ thuật trần thuật đặc sắc đã đem đến cho người đọc những trang văn thấm đẫm cảm xúc. Qua tác phẩm này, chúng ta có hình dung đầy đủ về vẻ đẹp phẩm chất của những cô thành niên xung phong, họ vừa hồn nhiên, mơ mộng, nữ tính, nhưng cũng vô cùng kiên cường, dũng cảm. Họ chính là những đại diện tiêu biểu nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Bài làm 2:
Hình ảnh những thanh niên xung phong anh dũng, kiên cường vốn là đề tài nổi bậc và xuyên suốt trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Lê Minh Khuê với truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” đã khắc họa thành công hình ảnh những cô gái xung phong phá bom, mở đường thật chân thực: hồn nhiên, trong sáng, giàu mộng ước, lạc quan, yêu đời và rất dũng cảm, mạnh mẽ trong chiến đấu. Tác phẩm là “đứa con tinh thần” đầu tiên của nhà văn, được viết vào năm 1971, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra rất ác liệt.
Sức hấp dẫn của thiên truyện không chỉ dừng lại ở việc phản ánh chân thực cuộc sống chiến đấu đầy khốc liệt của các cô gái thanh niên xung phong ở tuyến đường Trường Sơn mà truyện còn lôi cuốn người đọc ở nghệ thuật trần thuật và miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo của Lê Minh Khuê. Nhà văn đã rất khéo léo trong việc lựa chọn ngôi kể cho truyện ngắn của mình: ngôi thứ nhất qua nhân vật Phương Định. Điều này có tác dụng làm cho thế giới nội tâm với những ấn tượng, hồi tưởng của nhân vật hiện lên thật phong phú, đậm nét. Đồng thời, cách chọn ngôi kể qua một cô gái trẻ hồn nhiên, nhạy cảm, trong sáng và lại là người trong cuộc không chỉ làm cho câu chuyện trở nên khách quan, chân thực mà còn khiến cho câu chuyện mang một giọng điệu sôi nổi, đầy nữ tính.
Trước hết, truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống và chiến đấu hết sức gian khổ, hiểm nguy nơi chiến trường đầy bom rơi đạn nổ. Đó là câu chuyện về ba nữ thanh niên trẻ xung phong, sống ở dưới chân một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn tạo thành tổ trinh sát mặt đường. Họ bao gồm có: Thao, Nho và Phương Định, với nhiệm vụ quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá để lấp hố bom, đánh dấu các vị trí có bom chưa nổ và phá bom.
Hoàn cảnh sống của ba cô gái trẻ vô cùng khắc nghiệt. Họ ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm và ác liệt, từng ngày từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Có biết bao thương tích vì bom đạn giặc: “Đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Đó là hiện thực đầy mùi chiến tranh, không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy thần chết luôn rình rập.
Công việc của các cô đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch để đo và ước tính khối lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Nhiệm vụ của họ thật quan trọng nhưng cũng đầy gian khổ, hi sinh, phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức. Đây là một công việc vô cùng nguy hiểm, có thể đối diện với cái chết bất cứ lúc nào. Thậm chí, ở nơi cư trú của họ cũng luôn có sự rình rập của tử thần.
Đó là một hiện thức tàn khóc của chiến tranh, của sự tàn phá khủng khiếp khi mà màu xanh của cây cỏ tự nhiên cũng không thể sống nổi. Vì thế, sự che chắn giản đơn của thiên nhiên như là ngụy trang để bảo vệ mạng sống của họ cũng không có được. Trước mắt người đọc là cảnh tượng của hoang phế, trần trụi, ảm đạm chết chóc, tang thương. Không dừng lại ở đó, khi làm nhiệm vụ họ phải chạy trên cao điểm giữa cái nắng chói chang, phơi mình giữa trọng điểm bắn phá của máy bay địch.
Thế nhưng, ngay giữa chiến trường, ta vẫn thấy những tâm hồn tươi trẻ, luôn rạng rỡ niềm tin yêu cuộc sống của ba cô gái trẻ. Ở họ toát lên vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Như biết bao con người trẻ tuổi của đất nước đang dấn thân vào cuộc chiến một mất một còn với kẻ thù xâm lược, họ là những cô gái còn rất trẻ, tuổi đời mười tám đôi mươi. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ rời xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào cái nơi mà sự mất còn chỉ diễn ra trong gang tấc. Họ hi sinh tuổi thanh xuân và không tiếc máu xương, thực hiện lí tưởng cao đẹp:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, lòng dũng cảm, gan dạ không sợ gian khổ hi sinh. Mặc dù còn rất trẻ, luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ, họ có thể hi sinh bất cứ lúc nào, nhưng để con đường được thông suốt nên các cô luôn sẵn sàng trong việc ra trận. Có lệnh là lên đường bất kể trong tình huống nào. Họ làm việc một cách tự nguyện, luôn nhận khó khăn, nguy hiểm về mình: “Tôi một quả bom trên đồi. Nho hai quả dưới lòng đường. Chị Thao một quả dưới cái chân hầm ba – ri – e cũ”. Đối mặt với hiểm nguy, các cô cũng nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt không cụ thể” quan trọng là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”. Như thế họ đã đặt công việc lên trên cả tính mạng của mình.
Họ bình tĩnh, can trường và có tinh thần dũng cảm. Những lúc căng thẳng nhất, chị Thao móc cái bánh bích quy trong túi ra nhai. Họ nói đến công việc phá bom với giọng điệu bình thản. Đối mặt với cái chết, các cô không hề run sợ mà bình tĩnh moi đất, đặt dây, châm lửa, tính toán sao cho chính xác.
Ở họ còn có tình đồng đội gắn bó, thân thiết: hiểu được tính tình, sở thích của nhau, quan tâm chăm sóc nhau rất chu đáo. Phương Định bồn chồn, lo lắng khi chờ chị Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm. Khi Nho bị thương, Phương Định và chị Thao đã lo lắng, băng bó chăm sóc Nho cẩn thận với niềm xót xa như chị em ruột thịt và cảm thấy “đau hơn người bị thương”.
Cuộc sống chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, hiểm nguy nhưng họ luôn lạc quan, yêu đời. Họ có cuộc sống nội tâm phong phú, đáng yêu, dễ xúc cảm, nhiều mơ ước. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mộng mơ và hát… Họ hồn nhiên như những đứa trẻ trước cơn mưa đá. Và trận mưa đã trở thành nỗi nhớ – sự nối dài quá khứ hôm qua và khát vọng mai sau. Kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong tâm hồn, những cảm xúc hồn nhiên như nguồn sống, điểm tựa, giúp họ thêm vững vàng, thêm sức mạnh vượt qua những khó khăn, nguy hiểm.
Quả thật, đó là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng như không thể cùng tồn tại, vô cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà cũng hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống sinh hoạt. Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể, chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng – những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn
Sự thành công của truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhất là việc miêu tả tâm lí các nhân vật trong truyện. Điều này không chỉ được thể hiện ở việc tác giả khắc họa thái độ và trạng thái nhân vật trong mỗi lần làm nhiệm vụ phá bom, mà nữ nhà văn còn đặc biệt lách sâu vào trong mạch ngầm đời sống nội tâm của các cô gái thanh niên xung phong, làm hiện lên những vẻ đẹp tâm hồn thật sinh động, phong phú.
Đó là những nét đẹp chung của những cô gái trẻ như nhạy cảm, dễ xúc động, nhiều mộng mơ nhưng ở họ lại có những nét đẹp, sức hấp dẫn riêng của các cô gái ra đi từ đất Hà Thành mỹ lệ. Chị Thao là đội trưởng, người lớn tuổi nhất, luôn “cương quyết, táo bạo” và “bình tĩnh đến phát bực” trong mọi hoàn cảnh nhưng lại sợ nhìn thấy máu chảy và sợ vắt. Chị có sở thích là chép lại các bài hát, dù chẳng thuộc nhạc, giọng lại chua. Nho thì ít tuổi hơn, trẻ trung, hồn nhiên “trông mát mẻ như một que kem trắng”, lại thích nhai kẹo, tắm suối, dù biết là ở đó hay có bom nổ chậm… nhưng khi làm nhiệm vụ thì luôn tỉnh táo, mạnh mẽ, dũng cảm. Khi bị thương, Nho không hề rên la và không muốn mọi người xung quanh phải lo lắng.
Nhất là Phương Định, dưới ngòi bút của Lê Minh Khuê, cô hiện lên là một cô gái hồn nhiên, trẻ trung, lạc quan và giàu mơ ước về tương lai. Cô luôn tự hào, hãnh diện về vẻ đẹp ngoại hình của mình, khiến các anh lính phải ngả nghiêng, ngây ngất, luôn tìm cách để bắt chuyện, làm quen: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn…”. Đặc biệt Phương Định luôn thích ngắm mình trong gương, nhất là ngắm đôi mắt. “Nó dài, màu nâu, hay nheo lại như chói nắng” và được các anh lái xe khen “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”.
Phương Định luôn có ý thức giữ gìn hình tượng của mình trong mọi hoàn cảnh. Dù trong lúc đang phá bom, cảm thấy rất sợ nhưng cô “cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới”. Cô có sở thích mê hát, “thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát…”. Nhưng hình ảnh gây ấn tượng nhất trong lòng người đọc khi nói tới Phương Định là cảnh tượng cô bất ngờ gặp cơn mưa đá. “Tôi chạy vào, bỏ trên bàn tay đang xòe ra của Nho mấy viên đá nhỏ. Lại chạy ra, vui thích cuống cuồng”. Để rồi sau những niềm vui con trẻ “say sưa, tràn đầy” là những nỗi nhớ da diết về người mẹ, cái cửa sổ ngôi nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, là cây, là cái vòm nhà hát hoặc bà bán kem đẩy những chiếc xe chở đầy kem…
Tất cả như vừa thực, vừa hư, cứ xoáy sâu vào trong tâm trí của Phương Định. Và tất cả điều đó đã trở thành hành trang trong tâm hồn, giúp họ có thể vượt qua sự tàn khốc của hiện thực chiến tranh, đốt lên trong lòng họ niềm tin yêu cuộc sống. Đó là những nét đẹp tâm hồn đầy nhân bản đáng quý, đáng trân trọng.
Phẩm chất anh hùng, ý chí kiên định, tình yêu cuộc sống của con người được dồn hết cả vào đoạn miêu tả lần phá bom nổ chậm. Những quả bom im lặng nhưng ẩn chứa hiểm nguy đáng sợ. Đối diện với quả bom và hình dung về những gì nó có thể gây ra, dù là người có thần kinh vững chãi nhất cũng phải run sợ. Thế nhưng, với ba cô gái, đó là một cảm giác quen thuộc, quen đến nỗi họ quên hết sức tàn phá của nó, chỉ nghĩ đến việc còn bao nhiêu quả bom chưa phá. “Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm, về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng loá lên khuôn mặt nhem nhuốc […] thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ…”.
Lê Minh Khuê tiếp tục lia ống kính quay chậm vào một lần phá bom của Phương Định, tái hiện thật chân thực, tinh tế cảnh tượng kinh khủng đó. Mặc dù đã rất nhiều lần phá bom, nhưng với Phương Định mỗi lần làm công việc này vẫn là một thử thách với thần kinh cho đến từng cảm giác: “Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm chậm quá. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.”. Lời văn như dao nhọn, sắc lạnh đến rợn người, khiến người đọc như cảm giác đang trực tiếp trải nghiệm tham gia công việc phá bom cùng với nhân vật vậy!
Tiếp đó là những giây phút chuẩn bị kích nổ trái bom: “Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái hố đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình…”. Những giây phút đợi chờ tiếng nổ của quả bom thật căng thẳng, “tim tôi cũng đập không rõ”, thậm chí cô còn nghĩ tới cái chết, nhưng đó là cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Cái chính lúc này là “bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? […] nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái, đến vang óc. Ngực tôi nhói, mắt cay xè… mùi thuốc bom buồn nôn… Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu”…
Quả là một cuộc chiến đấu không cân sức, nguy hiểm đầy ngoạn mục nhưng cô gái đã mạnh mẽ vượt qua. Đến đây, người đọc càng cảm nhận thấy sự tàn ác khốc liệt của chiến tranh bao nhiêu thì lại càng cảm phục tinh thần trách nhiệm trong công việc, lòng quả cảm vô song, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc, vì hòa bình của những cô gái thanh niên xung phong phá bom mở đường đến bấy nhiêu. Qua đó, chúng ta mới thấy hết được ý thức, trách nhiệm công dân cao độ của những con người anh hùng xả thân vì kháng chiến, cách mạng:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
(Thanh Thảo)
Lê Minh Khuê đã có lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách kể chuyện tự nhiên. Nghệ thuật xây dựng nhân vật hết sức tinh tế và sắc sảo, nhất là miêu tả tâm lí. Ngôn ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ tình. Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không khí chiến trường. Tất cả đã giúp nhà văn làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.