Đứng trước các nguồn tư liệu như thế, nhiều nhà nghiên cứu đã trực tiếp hoặc gián tiếp phủ nhận tác giả của bài thơ là Lý Thường Kiệt. Hầu như tất cả đều cho bài thơ là bài thơ thần, của thần, tức là của trí thức trong các thế kỉ đấu tranh khẳng định nền độc lập dân tộc viết ra, lưu truyền, sửa chữa rồi đưa đẩy vào các huyền thoại, huyền tích, các thiên u linh, chích quái,... truyền lại cho đời sau.
- Bài thơ được viết theo thể thất ngôn (bảy chữ) tứ tuyệt (bốn câu), một trong hai thể thơ rất phổ biến đời Đường (thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú), được du nhập sang nước ta và cũng trở thành một thể thơ phổ biến của văn học trung đại. Quy định về thanh điệu, vần luật trong thơ thất ngôn tứ tuyệt rất chặt chẽ, tuy nhiên chỉ cần lưu ý sự hiệp vần ở chữ thứ bảy trong các câu 1, 2 và 4 (cũng có khi chỉ cần hiệp vần ở chữ thứ bảy trong câu 2 và 4). Trong bài thơ này, vần “ư” được hiệp ở cả ba câu 1, 2 và 4).
Bài thơ có thể được chia thành hai phần:
Hai câu đầu: Lời khẳng định nước Nam là của người Nam. Điều đó đã được sách trời định sẵn, rõ ràng.
Hai câu sau: Là lời răn đe rất dõng dạc (kẻ thù không được xâm phạm, nếu không thì thế nào cũng phải chuốc lấy bại vong).
Về nội dung:
Nhận dạng thể thơ của bài Nam quốc sơn hà:
Số câu: 4.
Số chữ trong câu: 7.
Các hiệp vần: vần “ư” được hiệp ở cả ba câu 1, 2 và 4.
Tuyên ngôn Độc lập là lời tuyên bố về chủ quyền của đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm vào quyền độc lập ấy. Tuyên ngôn Độc lập trong bài thơ Sông núi nước Nam thể hiện ở các khía cạnh:
Tác giả khẳng định nước Nam là của người Nam. Đó là điều đã được ghi tại “thiên thư” (sách trời). Tác giả viện đến thiên thư vì ngày xưa người ta vẫn còn coi trời là đấng tối cao. Người Trung Quốc cổ đại tự coi mình là trung tâm của vũ trụ nên vua của họ được gọi là “đế”, các nước chư hầu nhỏ hơn bị họ coi là “vương” (vua của những vùng đất nhỏ). Trong bài thơ này, tác giả đã cố ý dùng từ “Nam đế” (vua nước Nam) để hàm ý sánh ngang với “đế” của nước Trung Hoa rộng lớn.
Ý nghĩa tuyên ngôn còn thể hiện ở lời khẳng định chắc chắn rằng nếu kẻ thù vi phạm vào quyền tự chủ ấy của nước ta thì chúng thế nào cũng sẽ phải chuốc lấy bại vong.
Bài thơ triển khai nội dung biểu ý theo bố cục: ở hai câu thơ đầu, tác giả đã khẳng định một cách tuyệt đối chủ quyền lãnh thổ với một thái độ của một dân tộc luôn trân trọng chính nghĩa. Từ khẳng định chân lí, đến câu thơ cuối, tác giả đã dựa ngay trên cái chân lí ấy mà đưa ra một lời tuyên bố chắc chắn về quyết tâm chống lại những kẻ làm trái những điều chính nghĩa.
Bố cục của bài thơ như thế là chặt chẽ, khiến cho những luận cứ đưa ra đều rất thuyết phục.
Bài thơ tuy chủ yếu thiên về biểu ý song không phải vì thế mà trở thành môn bài luận lí khô khan. Có thể nhận thấy rằng, sau cái tư tưởng độc lập chủ quyền đầy kiên quyết ấy là một cảm xúc mãnh liệt ẩn kín bên trong. Nếu không có tình cảm mãnh liệt thì chắc chắn không thể viết được những câu thơ đầy chí khí như vậy.
Về nghệ thuật:
Nam quốc san hà là một bài thơ tứ tuyệt chắc nịch, sáng rõ, không hình ảnh, không hoa văn; cảm xúc trữ tình được dồn nén trong ý tưởng. Qua các cụm từ tiệt nhiên (rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác), định phận tại thiên thư (định phận tại sách trời) và hành khan thủ bại hư (chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại), chúng ta có thể nhận thấy cảm hứng triết luận của bài thơ đã được thể hiện bằng một giọng điệu hào sảng, đanh thép, đầy uy lực.
Tóm lại, Sông núi nước Nam là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên khẳng định chủ quyền về lãnh thố của đất nước, đồng thời nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược. Bài thơ khơi gợi niềm tự hào, tự tôn dân tộc trong mỗi chúng ta.