“Tương tư không biết cái làm sao
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào…”
(Tương tư)
Xuân Diệu – Ông chúa thơ tình - người đồng thời với thi sĩ Nguyễn Bính cũng có bài “Tương tư chiều” (Thơ thơ – 1938) nồng nàn thương nhớ:
“Anh nhớ tiếng, Anh nhớ hình, Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi dang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm”.
Năm 1939, Nguyễn Bính viết “Tương tư” in trong tập “Lỡ bước sang ngang” xuất bản tại Hà Nội, năm 1940. Với 20 câu thơ lục bát, Nguyễn Bính đã có một cách nói riêng về nỗi nhớ, nỗi buồn tương tư. Chàng trai đa tình, mơ mộng khắc khoải chờ mong và thương nhớ cô gái “chung làng” với một tình yêu chưa được đáp đền… nên mới tương tư như thế. Nỗi tương tư buồn dịu ấy được đặt vào một khung cảnh bình dị đáng yêu trong hương đồng gió nội thuần khiết, trong sáng như một mối tình đan díu xưa cũ trong bài hát giao duyên thuở nào.
Có yêu lầm nhớ nhiều nên mới tương. Yêu lắm nhớ nhiều, mà không được “người tình” đáp lại, không được gặp mặt người yêu thì mới tương tư, mang nỗi buồn tương tư. “Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều – Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang” (“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)
Khổ thơ đầu nói lên nỗi “nhớ”, nỗi “mong” của kẻ đang yêu, nỗi nhớ mong đầy ắp trong lòng, đã thành “bệnh” bởi lẽ “tôi yêu nàng”:
“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời.
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Chữ “tôi” xuất hiện trong bài thơ thật đáng yêu. Thôn Đoài với thôn Đông là nơi nhà “Nàng” và nhà “Tôi” đang ở. Cách sử dụng hoán dụ - nhân hoá kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ - vị ngữ (chín, mười, nhớ mong = chín nhớ mười mong) làm cho lời thơ trở nên bình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. Nỗi “chín nhớ mười mong một người” không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Yêu nàng tôi tương tư đã thành “bệnh”, thật đáng thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với bệnh tương tư “của tôi yêu nàng”, Nguyễn Bính đã diễn tả mọt cách hồn nhiên, thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Yêu thì mong được gần nhau, mà xa thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều; càng nhớ mong thì càng tương tư. Tương tư là một nét đẹp của tình yêu nên khác gì “Nắng mưa là bệnh của giời”....
Mười hai câu tiếp theo nói lên tâm trạng tương tư “bệnh của tôi yêu nang”. Trước hết là nỗi băn khoăn thắc mắc. Tuy chẳng được ở gần nhau “bên giậu mùng tơi”, “bên giàn thiên lý”, nhưng tôi với nàng gần gũi biết bao “Hai thôn chung lại một làng”. Có mong có nhớ… có đi mà không có lại, nên băn khoăn thắc mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ? Một câu hỏi cất lên nghe thật là thương, thật là buồn:
“Có sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Đã bao lâu rồi chưa được gặp nàng, nỗi buồn tương tư càng da diết, nôn nao:
“Ngày qua ngày lại qua ngày.
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.
Ba chữ “ngày” kết hợp với chữ “qua” một chữ “lại” diễn tả nỗi buồn triền miên dằng dặc. Từ mùa xuân, khi lá xanh nay đã cuối thu “cây lá vàng”, thế mà “bên ấy” chẳng sang bên này? Làm sao chẳng mỏi mòn mong nhớ? Làm sao chẳng tàn úa như lá vàng mùa thu? Nguyễn Bính đã học tập cách nói của dân gian lấy cây cỏ sắc màu để diễn tả thời gian ly cách. Thời gian tâm lí, thời gian tâm trạng: dằng dặc mong nhớ, triền miên buồn trông - được nói lên một cách rất thơ, rất đậm đà, ý vị.
Thắc mắc rồi trách móc, rồi hờn tủi. Băn khoăn tự hỏi, tự giày vò mình: “Bảo rằng”, “không … là chẳng… đã đành”, “nhưng”, “có xa xôi mấy…”, hỏi để rồi lại băn khoăn, hờn dỗi. Và chỉ biết hỏi mình mà thôi, càng hỏi càng cô đơn lẻ loi, hờn tủi:
- “Có xa xôi máy mà tình xa xôi?”
- “Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?”
Trải qua những “chín nhớ mười mong”, hết trách móc hờn dỗi rồi lại trông đợi cầu mong. Thật chân tình, thật chân thành, tha thiết:
“Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) để thể hiện một nỗi ước mong, một khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng”, trở thành “cái chung” của nhiều chàng trai, cô gái khác. Vì thế đã 60 năm qua, tiếng thơ “Tương tư” vẫn được bao thế hệ độc giả trân trọng coi nó như tâm hồn mình, tiếng lòng mình. Có một số người cho rằng trong “tương tư” đâu phải là anh trai cày “tát nước đầu đình” mà có thể là một chàng trai đang học trường tổng, trường huyện và đã từng đọc “Hồn bướm mơ tiên”…thích mơ mộng. Nguyễn Bính không chỉ làm cho vần thơ mang vẻ đẹp mộc mạc như ca dao mà lại cũng khác ca dao, là ở chỗ ấy.
Ở phần hai là bài thơ, chàng trai lúc thì trách móc, lúc thì nhắn hỏi liên tiếp mà “nàng” vẫn hững hờ, biệt tăm. Kẻ thì đa tình mơ mộng.. mà đối tượng yêu đến tương tư kia lại mơ hồ, vô định, nhớ thương mong đợi, có đi mà chẳng bao giờ có lại. Chỉ là chuyện hão huyền, vô vọng vì đó là một tình yêu đơn phương. Bởi vậy, nhớ và mong, trách và hỏi đâu mơ hồ, vu vơ. Ở đời vẫn có những mối tình yêu như thế, lãng mạn như thế: “Ai biết tình ai có đậm đà?” (Hàn Mặc Tử). Năm 1921 thi sĩ Tản Đà viết trong bài thơ “Thử trách người tình không quen biết”:
“Nhớ mình ra ngẩn rào ngơ
Trông mây trông nước, nay chờ mai mong”.
Và năm 1926, ông còn viết:
“Mong ai mỏi mắt chân trời,
Nhớ ai, đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ”.
(“Thư trách người tình không quen biết”)
Qua đó, ta mới có thể cảm nhận được tình tương tư “một người chín nhớ mười thương mong một người” trong thơ Nguyễn Bính. Và đó chỉ là yêu vụng dấu thầm mà thôi.
Bốn câu thơ cuối bài nói lên niềm mơ ước muôn đời của lứa đôi. Và ở đây là của “anh”. Yêu nhau đâu chỉ có “chín nhớ mười mong”, đâu chỉ có tương tư mà còn ước mơ hạnh phúc:
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
“Có một giàn giầu”, “có một hàng cau liên phòng”, nhà anh, nhà em mới đều chỉ có “một” nghĩa là còn lẻ loi, đơn chiếc. Anh và em vẫn đôi nơi: Anh ở thôn Đoài, em vẫn ở thôn Đông, vẫn còn xa cách quá chừng. Vẫn là một trời mong nhớ: “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Anh nhớ em, tưởng như: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”. Hình ảnh ẩn dụ “giầu – cau” dân đã biểu lộ niêm mơ ước: duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứa sắt son, bền chặt. Cấu trúc song hành gợi tả mối quan hệ gắn bó của một đôi trai gái trong một tình yêu đẹp: nhà tôi và nhà em, thôn Đoài và thôn Đông, trầu và cau. Tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đôi, của trai gái. Nguyễn Bính đã khép lại bài thơ bằng một lối diễn đạt tinh tế, đậm đà, nhiều man mác, bâng khuâng. Mơ ước về trái ngọt hạnh phúc sẽ làm lịm môi, mơ ước về con thuyền tình sẽ cập bến hạnh phúc… đó là mơ ước đẹp rất nhân văn. Vần thơ, câu thơ của tác giả “Lỡ bước sang ngang” được tuổi trẻ thời áo trắng yêu thích là vì thế.
“Tương tư” vượt lên thời gian, đã sống trong lòng người, trong trái tim, tâm hồn bao chàng trai, cô gái. Ngôn ngữ và chất thơ dung dị, hồn nhiên, dân dã và không kém phần lãng mạn thơ mộng. Một hệ thống ẩn dụ - ước lệ: thôn Đoài, thôn Đông, bến- đò, hoa - bướm, cau - trầu… - với cách nói ví von bình dị đã tạo nên một không gian nghệ thuật gần gũi, thân quen là làng xóm, quê nhà, là “hồn xưa đất nước”. Cái mới trong thơ lục bát của Nguyễn Bính là chất biểu cảm nồng nàn, là niềm khao khát về tình yêu hạnh phúc, là cái tôi trữ tình, là “của tôi yêu nàng”, là cảm xúc của tuổi trẻ bấy lâu nay.
Trong “Tương tư” có mong nhớ và buồn, có trách móc và giận hờn, nhưng chủ yếu là vươn tới, là mơ ước, khát khao để anh và em, để cau thôn Đoài và giầu không thôn Đông thắm lại, son sắt, thuỷ chung. Mọi mơ ước đều đẹp. Mơ ước về tình duyên hạnh phúc lại càng đẹp. “Tương tư” thể hiện hồn thơ Nguyễn Bính: lãng mạn chân quê, man mác hương đồng gió nội một thời quá vãng.