Cuộc đời của Mị và A Phủ có hai giai đoạn gắn với hai cảnh đời sáng - tối đối chọi nhau. Giai đoạn đầu khi ở Hồng Ngài, Mị và A Phủ đều là nô lệ cho nhà Thống lí Pá Tra. Đó là quãng đời tăm tối, bị đối xử như con trâu, con ngựa. Giai đoạn sau, khi ở Phiềng Sa là một cuộc sống khác hẳn, Mị và A Phủ đã đổi đời, đứng lên chiến đấu bảo vệ mình, bảo vệ đất nước. Như vậy, tác phẩm Vợ chồng A Phủ có hai đề tài chính: đề tài về cuộc sống bị áp bức, tủi nhục của người dân miền núi dưới chế độ phong kiến thực dân và đề tài về sự thức tỉnh vùng dậy chiến đấu để giải phóng cho bản thân, cho dân tộc của chính những người dân ấy. Theo bước chân và các mối quan hệ của hai nhân vật Mị và A Phủ, tác phẩm mở ra đề tài thứ ba: bộ mặt tàn bạo của bọn lãnh chúa phong kiến miền núi và sự cấu kết của chúng với thực dân. Những đề tài trên được tác giả xử lí một cách khéo léo từ đó làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ.
Trước hết, ở đề tài thứ nhất, Vợ chồng A Phủ là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến thực dân được phản ánh qua cuộc đời Mị và A Phủ.
Mị là một cô gái trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đã từng được yêu và có những đêm tình mùa xuân hạnh phúc. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị bị cướp về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Mị bị biến thành nông nô, bị chà đạp cả về nhân phẩm lẫn thể xác. Quãng đời sống trong nhà Thống lí là một quãng đời đau thương, tăm tối. Ách áp chế nặng nề đã biến một cô gái hồn nhiên, đa cảm thành hiện thân của sự nhẫn nhục, cam chịu. Mị sống câm lặng, lầm lũi, quanh năm vùi đầu vào những công việc khổ sai. Mị còn bị đày đọa bởi mê tín thần quyền. Một khi đã đem ra “cúng trình ma” thì người đàn bà phải tuân theo sự trói buộc vô hình suốt cả một đời. Cho nên, biết khổ, biết nhục, biết mình bị đày đọa mà không dám phản kháng chống lại sự đày đọa khổ nhục ấy. Hơn nữa, những con người như Mị thật bé nhỏ trước thế lực tàn bạo của cường quyền.
Bị giam hãm trong “địa ngục trần gian” của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết dần, chết mòn theo ngày tháng: “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, Mị không còn nhớ đến cả tuổi của mình nữa, Mị đang bị tê liệt dần cả về cảm giác lẫn ý thức, tâm hồn, tình cảm. Cái ác của bọn thống trị là không những bóc lột, đày đọa con người về vật chất, thể xác mà còn giết chết dần ở con người những giá tị nhân bản tốt đẹp. Con người bị biến thành công cụ, thành những con vật chịu sự sai khiến.
Mị và A Phủ đều là nô lệ trong nhà Thống lí. Nhưng con đường đến nhà Thống lí thì mỗi người một kiểu. Mị vì món nợ truyền kiếp mà phải thành nô lệ còn A Phủ vốn không nợ nần gì nhà Thống lí nhưng cũng không thoát được vẫn rơi vào cảnh nô lệ.
A Phủ là một thanh niên nghèo suốt đời làm thuê, làm mướn. Cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa. Chính cuộc sống cùng khổ ấy đã hun đúc ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và một tính cách gan góc cùng tài năng lao động đáng quý. A Phủ là đứa con của núi rừng, hồn nhiên, trung thực. Chỉ vì dám đánh con quan mà bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, bị phạt vạ và trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Cuộc đời A Phủ và cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng đã mở ra một khía cạnh khác trong giá trị hiện thực của tác phẩm: trong xã hội phong kiến miền núi trước Cách mạng, chân lí, lẽ phải bao giờ cũng thuộc về “con quan”, thuộc về kẻ giàu, kẻ mạnh, kẻ thống trị. Người nghèo phản kháng lại sự bất công thì bị đánh đập, bị tước quyền tự do, bị biến thành nô lệ, không chỉ suốt đời mà đời con đời cháu cũng không thoát được. Hơn nữa, những hủ tục nặng nề ngàn đời là hiện thân ách áp chế kiểu trung cổ miền núi. Những hủ tục đó đã đẩy biết bao người nghèo vào thảm cảnh của sự cùng cực đói khổ. Những hủ tục ấy vừa tiếp tay vừa là công cụ cho bọn phong kiến thống trị đầy ải người dân, chà đạp lên nhân phẩm của họ. Việc A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra càng tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm.
Hết ngày nay qua ngày khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt đàn bò, ngựa đông hàng mấy chục con. Chẳng may một con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết. Trong tay bọn thống trị, tính mạng con người thật không bằng một con vật.
Cuộc đời nô lệ khổ đau của Mị và A Phủ là điển hình cho thân phận người dân nghèo miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp nhân phẩm, đối xử với con người không bằng con vật, đó là bản chất của chế độ lúc bấy giờ.
Giá trị hiện thực của tác phẩm còn bộc lộ ở đề tài thứ hai. Đó là bộ mặt tàn bạo của bọn chúa đất phong kiến và bè lũ thực dân. Điều này được tác giả thể hiện sâu sắc qua hình ảnh cha con thống lí Pá Tra trong mối quan hệ với Mị và A Phủ.
Nhà Pá Tra giàu có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện. Hắn làm giàu bằng bóc lột sức lao động, bằng chế độ lao dịch, bằng cho vay lãi nặng rồi bắt người ta làm nô lệ để trừ nợ. Cha con thống lí còn rất nhẫn tâm. Tô Hoài đã nhiều lần nói đến cảnh đánh người, trói của của Pá Tra và A Sử bằng những chi tiết rất thực: “A Sử lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà, tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột rồi y tắt đèn, đóng cửa lại”. Cái kĩ càng, rành rẽ trong từng động tác biểu hiện sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử. Mị phải thức suốt đêm xoa thuốc dấu cho A Sử, mỗi lần buồn ngủ quá thiếp đi, “A Sử bèn đạp chân vào mặt Mị”. Thống lí Pá Tra thì quyết định trói A Phủ cho đến chết, mà trói như thế nào? A Phủ phải tự tay mang dây, chôn cọc cho thống lí quấn dây trói từ chân lên đầu. Không chỉ tàn ác thản nhiên, chúng còn phản dân, hại nước, chúng cấu kết với thực dân để làm giàu, để bóc lột, áp bức người dân. Dưới thời phong kiến thực dân, bọn lang đạo, chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa, làm gió. Đáng chú ý là dưới ngòi bút tố cáo của Tô Hoài, các thế lực phong kiến, thực dân hiện lên không chỉ như cái xấu, cái ác mà còn điển hình của vết nhơ bẩn trên bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ của Tây Bắc.
Hai đề tài nghiêng về giá trị hiện thực. Nhưng xét đến cùng, biết ghét cũng là biết yêu thương, có yêu thương mới thấy những người mình yêu thương khổ thế nào và kẻ nào làm cho họ khổ để mà căm ghét. Đề tài thứ ba là đề tài tươi sáng của cuộc đời Mị và A Phủ: quá trình hồi sinh, giác ngộ ý thức cách mạng và sự vùng lên đấu tranh cho bản thân, cho dân tộc. Đề tài này vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn bằng cảm nhận của mình đã chứng minh được một điều kì diệu là: dẫu trong cùng cực thế nào đi chăng nữa thì mọi thế lực tàn ác cũng không thể hủy diệt được sức sống con người, từ trong sâu thẳm, con người vẫn khát sống, khát yêu và hướng đến những trang tươi sáng cho cuộc đời mình. Cái sức sống tiềm tàng ấy cùng với khát vọng mãnh liệt ấy khi có cơ hội sẽ bùng lên.
Cách nhìn của Tô Hoài trong tác phẩm hết sức nhân bản. Tác giả đã dồn bút lực tập trung khắc họa diễn biến tâm lí hồi sinh của Mị. Đó là vào một đêm tình mùa xuân, “Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị sống với quá khứ tuổi xuân của mình. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo dìu Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Mị còn trẻ, Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, A Sử đã phũ phàng dập tắt. Nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh để dẫn tới hành động cắt dây trói cứu A Phủ ở đoạn sau đó.
Trước cảnh A Phủ bị trói, bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen” Mị thốt lên trong lòng: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết. Chúng nó thật độc ác”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức tình thương, nỗi đau tưởng đã lắng chìm trong Mị, cùng với lòng căm thù cha con thống lí bùng lên đã lấn át sợ hãi, dẫn Mị đến hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ rồi sau một giây khựng lại Mị cũng vùng chạy theo, tự giải thoát đời mình. Hai con người cùng cảnh ngộ đã cùng nhau lao xuống dốc núi, bỏ xa cái địa ngục trần gian đã từng đày ải họ.
Nhà văn đã rất thấu hiểu nỗi khổ cực, bế tắc của người dân miền núi, từ đó thấy được sự thức tỉnh, sự vùng dậy của họ, trước tiên là thoát khỏi cái dây trói của cường quyền và thần quyền. Khi những cái dây trói đó đã bị cắt đứt, họ dừng lại ở Phiềng Sa và thành vợ chồng.
Sống ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ mới thực sự được làm người. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm không dừng lại ở đây. Từ phản ứng tự phát để tự giải phóng mình, Mị và A Phủ thực sự tự tin, sống vững vàng, có bản lĩnh và khi nỗi ám ảnh về “con ma nhà thống lí” mất đi, họ được A Châu, một người cộng sản giác ngộ và trở thành thành viên đội du kích Phiềng Sa. Mặc dù phần sau của truyện có chỗ chưa được dụng công, ý đồ nghệ thuật có vẻ hơi “lộ” nhưng tư tưởng nhân đạo mới mẻ, tiến bộ ở những nhà văn như Tô Hoài thời đó thật đáng quý. Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi nước ta. Tô Hoài khi tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản chất của nó, không thể không miêu tả quá trình vận động mang tính quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân đạo sâu sắc và tiến bộ của Vợ chồng A Phủ.
Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo lớn lao, tiến bộ của Vợ chồng A Phủ. Những giá trị này đã giúp cho tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước thử thách của thời gian và được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.