Thế nào là một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo? Trả lời câu hỏi này, người ta thường cản cứ trên một số phương diện cơ bản của tác phẩm. Trước hết một tác phẩm cổ giá trị nhân đạo phải là một tác phẩm tập trung tố cáo vạch trần tội ác của những thế lực đang chà đạp lên quyền sống của con người. Tác phẩm đó cũng phải là một tác phẩm nhằm tập trung biểu dương, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người. Cuối cùng nhà văn trong tác phẩm phải thông cảm và thấu hiểu được tâm tư tình cảm cũng như những nguyện vọng và mơ ước của con người, giúp họ nói lên những ước nguyện và đấu tranh để giành được ước nguyện ấy. Tất cả điều đó có nghĩa là tác phẩm chỉ có giá trị nhân đạo khi giúp con người sống cho ra con người “giữ cho con người không sa xuống thành con…” vật mà cũng không thành những ông thánh vô bổ và vô duyên. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo “(Nguyên Ngọc – Văn nghệ 31.10.1987).
Vợ chồng A Phủ, như tên gọi của thiên truyện, viết về cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mèo ở vùng núi cao Tây Bắc trước và sau khi đến với cách mạng. Thiên truyện nhằm làm nổi bật lên số phận khốn khổ, tủi nhục của những người dân miền núi dưới ách thống trị của lũ chúa đất và bọn thực dân, đồng thời ca ngợi cuộc đổi đời của họ nhờ cách mạng. Như thế bản thân đề tài và chủ đề của tác phẩm đã mang nội dung nhân đạo sâu sắc. Thực hiện chủ đề ấy, tác phẩm kết cấu theo hai phần. Phẩn I. Cuộc sống nô lệ của A Phủ và Mỵ ở Hồng Ngài; phần 2: Cuộc sống mới của vợ chồng A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa.
Sức nặng tố cáo và cảm hứng nhân đạo chủ yếu được thể hiện ở phần I, qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra. Đọc phần này, chúng ta xót xa cho một Mị, cô gái Mèo xinh đẹp, chỉ vì bố mẹ nghèo mà phải biến thành “con dâu gạt nợ” cho nhà thống lý Pá Tra. Cuộc sống địa ngục ở nhà tên chúa đất này đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn đầy sự sống và giàu mơ ước thành một nô lệ lầm lũi, cam chịu; thành một con vật trong nhà thống lý “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thậm chí nhiều khi Mị cảm thấy mình không bằng con vật. Trong cái đêm tình mùa xuân, bị trói đứng vào cột. Mị “chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa ván đứng gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Cuộc sống nô lệ tăm tối, như trong ngục tù của Mị được Tô Hoài đặc tả bằng căn buồng của cô: “đầu buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Bố con A Sử đã chà đạp lên con người MỊ không chỉ bằng sự bóc lột sức lao động, làm phu phen tạp dịch, suốt ngày hầu hạ chúng như những kẻ tôi đòi, khốn khổ mà chúng còn huỷ hoại cuộc sống tinh thần, ngăn cấm và dập tắt mọi suy nghĩ cũng như nguyện vọng dù là rất nhỏ của cô gái trẻ. Có thể nói số phận bi thảm của MỊ là số phận điển hình, tiêu biểu cho ngàn vạn người con gái miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Xung quanh Mị, nhà văn Tô Hoài còn khéo léo hé mở cho bạn đọc thấy thân phận của bao người con gái khác, trước hết là những người vợ, những người bị bát về làm dâu trong nhà bọn chúa đất. “Đời người đàn bà láy chồng nhà giàu ỏ Hồng Ngài thì một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”.
Số phận nô lệ, tủi nhục của người dân miền núi còn được bổ sung và hoàn chỉnh bằng cuộc đời rách nát đầy khốn khổ của A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ vốn là một thanh niên tràn đầy nhựa sống, khoẻ mạnh, cường tráng “A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”… thế mà chỉ một lần va chạm với A Sử mà bỗng biến thành kẻ tôi đòi cho nhà thống lý, mãn kiếp không’ thể cất đầu lên để được làm người, nếu không gặp cách mạng.
Giá trị nhân đạo còn thể hiện trong chỗ nhà vân vạch trần những hành vi và việc làm bạo ngược, đầy bất công ngang trái của bố con thống lý. Chỉ cần xem cách A Sử trói vợ, không cho đi chơi Tết và cuộc tra tấn hành hạ A Phủ sau cuộc xung đột với A Sử cũng đủ thấm thìa điểu đó. Đây là cảnh A Sử trói Mị: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị- Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, di ra, khép cửa buồng lại”. Còn đây là cảnh thống lý xử kiện A Phủ trước: “Cứ mỗi đợt hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mật A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh người thì quỳ lạy, kể kể chửi bới. Xong một trận đánh, kể, chửi, lại hút… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Thật khó có sự bất công, tàn bạo nào hơn thế nữa.
Ở một phương diện khác, giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ còn được thể hiện trong việc nhà văn thông cảm và thấu hiểu những tâm tư tình cảm và tâm trạng của những con người khốn khổ. Bên trong con người lầm lũi khổ đau của MỊ, Tô Hoài đã nhìn thấy một sức sống nội tâm hết sức mạnh mẽ và phong phú. Trong cái đêm mùa xuân bị trói ấy, tuy thể xác bị hành hạ, cầm tù, nhưng tâm hồn Mị hoàn toàn tự do “Hơi rượu còn nồng, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những dám chơi”. Mị văn bay bổng theo “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném quả pao, em không bắt
Em không yêu quả pao rơi rồi..
Em yêu người nào, em bắt pao nào…”
Cùng với việc phát hiện và miêu tả cuộc sống nội tâm phong phú của Mị, Tô Hoài cũng cho người đọc thấy những tính cách và phẩm chất rất tốt đẹp của A Phủ, những phẩm chất và tính cách mà bọn thống trị không bao giờ có: trung thực, thật thà, ngay thẳng, cần cù, chất phác… chính những phẩm chất tâm hồn và tính cách khoẻ khoắn mạnh mẽ ấy đã giúp MỊ và A Phủ có đủ sức sống và nghị lực để trỗi dậy, phá bỏ gông cùm, chạy trốn khỏi địa ngục Hồng Ngài, đi tìm tự do, cho dù chỉ là tự phát, chỉ là bất đầu từ lòng khát khao được sống.
Cuối cùng, việc vợ chồng A Phủ chạy đến Phiềng Sa, được cán bộ cách mạng A Châu giác ngộ, đi theo du kích đánh Pháp, làm lại cuộc đời, cuộc đời của những con người tự do, vừa phản ánh hiện thực vừa thể hiện ước mơ của đồng bào miền núi Tây Bắc, khi ánh sáng của cách mạng bắt đầu soi thấu vào cuộc đời tăm tối của họ. Đó cũng là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám: nhà văn không chỉ giải thích hiện thực mà còn góp phần cải tạo hiện thực, chỉ ra con đường giải phóng cho nhân loại cẩn lao.
Văn học Việt Nam vốn là một nền văn học giàu truyền thống nhân đạo. Nền văn học ấy như tấm gương phản chiếu lịch sử tâm hồn con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Một dân tộc nặng nghĩa, nặng tình, giàu lòng nhân ái, vị tha. Góp phấn làm giàu thêm truyền thống nhân đạo ấy là nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng của mỗi nhà văn chân chính. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một đóng góp rất đáng trân trọng vào truyền thống ấy.