Phân tích Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi - Bài làm 1
Nguyễn Thi là một nhà văn đã gắn bó sâu sắc với cuộc sống cùng chiến đấu anh dũng của nhân dân và quân dân miền Nam. Những sáng tác văn học của Nguyễn Thi tập trung vào phản ánh những hiện thực đấu tranh vô cùng dữ dội và quyết liệt của người dân Nam Bộ chống lại đế quốc Mỹ xâm lược cùng bọn tay sai, giành lại độc lập tự do và thống nhất cho toàn đất nước.
Những đứa con trong gia đình đã được Nguyễn Thi viết vào những ngày chiến đấu ác liệt đó là tháng hai năm 1966. Truyện ra đời ở bối cảnh lịch sử như vậy nên tác phẩm của Nguyễn Thi như một bức tranh sử thi vô cùng đồ sộ, hoành tráng về người dân Nam Bộ trong công cuộc chiến đấu nói riêng và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam ở trong kháng chiến chống giặc Mỹ nói chung.
Tính chất sử thi không chỉ là các khái niệm thể loại hoặc để chỉ quy mô của tác phẩm, mà đó là một tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống con người thời đại đã được phủ lên một màu sắc đầy tính sử thi. Tính chất sử thi là một đặc điểm tiêu biểu của dòng văn học sáng tác trong nền tảng của ý thức cộng đồng toàn dân bắt nguồn vào thời kỳ đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta bao gồm bọn thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Tính chất sử thi đã thể hiện ở sự xung đột trong tác phẩm văn học đó là sự xung đột giữa toàn dân với kẻ thù đang xâm lược. Chủ đề cơ bản mang tính chất sử thi là tình cảm vô cùng yêu thương, trân trọng và ngợi ca lên tinh thần dân tộc, truyền thống anh hùng trong quá trình đấu tranh giành lại độc lập, tự do. Lập trường sử thi là nhà văn vì lợi ích của toàn dân tộc và cộng đồng. Nhân vật có tính chất sử thi là nhân vật anh hùng đặc trưng cho phẩm chất ý chí cùng sức mạnh của dân tộc, đặc biệt là những hình tượng lãnh tụ, hình tượng của chiến binh, hình tượng của người mẹ.
Giọng điệu cũng mang tính sử thi cơ bản là giọng điệu ngợi ca và tụng ca; giọng khẳng định và cổ vũ cho nhân dân chiến đấu. Tình cảm cũng mang tính sử thi chủ yếu là tình yêu với Tổ quốc, yêu quê hương đồng bào, yêu bộ đội… Do những đặc điểm đó mà những khía cạnh đời sống khác như là đời sống cá nhân hoặc sinh hoạt đời thường với các hiện tượng tiêu cực… đều được xem xét theo xu hướng sử thi. Tác phẩm không phản ánh những vấn đề về cá nhân mà phản ánh những số phận, phẩm chất của cả một cộng đồng trong đời sống hiện tại.
Sử thi ở đây không phải là một vấn đề thể loại mà là khuynh hướng sử thi. Những đứa con trong gia đình cũng mang theo khuynh hướng sử thi. Vấn đề phản ánh ở trong tác phẩm sẽ tập trung vào một gia đình có truyền thống cách mạng đại diện cho nhân dân Nam Bộ và toàn đất nước trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm mang ý nghĩa rộng lớn ấy, trước hết là vì các thành viên ở trong gia đình mà nhà văn phản ánh mang ý nghĩa điển hình cho xã hội và nghệ thuật sinh động.
Ý nghĩa khái quát và bao trùm, sức khái quát hóa nghệ thuật vô cùng lớn lao bao giờ cũng vượt ra khỏi phạm vi đề tài của những tác phẩm có sức sống lâu dài trong lòng độc giả. Gia đình của nhân vật Chiến và Việt là một gia đình vô cùng điển hình của người dân vùng Nam Bộ trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu nói của chú Năm “chuyện của gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó” đã khái quát được một trong những phương diện cơ bản nhất về chủ đề truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.
Qua thiên truyện ngắn ấy, Nguyễn Thi đã khám phá được, phân tích và lý giải sức mạnh cũng như chiến công của thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, giữa truyền thống của gia đình với truyền thống của dân tộc đã hình thành nên sức mạnh vô cùng to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong công cuộc chiến đấu chống giặc Mỹ cứu nước.
Những đứa con trong gia đình có chung một huyết thống và truyền thống nên sẽ mang những nét giống nhau bao gồm hình dáng, tính cách đến tâm hồn. Chị Chiến giống má từ hình dáng đến tính cách vô cùng gan góc, đảm đang và tháo vát. Ngay cả sắp xếp công việc nhà cửa, ruộng vườn của Chiến vào đêm trước khi đi tòng quân cũng rất giống má nếu má vẫn còn sống, khiến cho Việt thấy rằng “in như má vậy”.
Chiến và Việt đều mang “hai bộ mặt bầu bầu cùng một khuôn có hai cái chót mũi hơi hớt lên”. Họ đều là những người con sinh ra trong một gia đình nông dân vùng Nam Bộ với truyền thống yêu nước căm thù lũ giặc sâu sắc, thủy chung son sắt cùng cách mạng, quyết tâm đánh đuổi giặc tới cùng, dẫu chỉ “còn cái lai quần cũng đánh”. Đó là những “chất Út Tịch” trong tâm trí họ.
Họ yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, ai cũng thấy tự hào về truyền thống của gia đình và muốn viết tiếp cho truyền thống đó. Truyện ngắn liên tục chảy từ thế hệ của cha anh đến thế hệ của những người lính trẻ anh dũng giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Theo quan niệm của Nguyễn Thi, mỗi người dân hay mỗi đời người ở trong một gia đình được cho là khúc sông thuộc một dòng sông truyền thống. Tuy nhiên do “mỗi người một khúc” nên ai cũng đều có nét tính cách riêng biệt, không có ai giống ai.
Mỗi nhân vật đều sẽ mang ý nghĩa điển hình cho phẩm chất anh hùng cũng như ý chí chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ được gia đình, quê hương và đất nước của người dân miền Nam. Đầu tiên phải nói tới nhân vật chú Năm. Trong dòng sông truyền thống thì gia đình nhà chú Năm thuộc khúc thượng nguồn. Đây là một hình tượng vô cùng đẹp, có ý nghĩa đại diện cho truyền thống gia đình. Chú là một người đàn ông vùng Nam Bộ ham sông, ham bến, sống rất thật thà, bộc trực lại vui tính, tính cách không kém phần mạnh mẽ, phóng khoáng và quyết đoán.
Chú cảm thấy vui mừng khi cả hai đứa cháu của mình đều muốn đi bộ đội. Chú bước lên xin ghi tên của cả hai chị em nhân vật Chiến và Việt và nói rằng: “Tôi xin một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong?”.
Không hề có tính toán tới cá nhân, chú luôn luôn dạy dỗ, động viên và nhắc nhở các cháu: phải giết được giặc để giành lại độc lập. Chú hiểu được vận mệnh của đất nước và của dân tộc không thể nào tách xa hạnh phúc của từng cá nhân, từng gia đình. Chú lập một cuốn sổ gia đình, chờ cho hai cháu trưởng thành, trao cuốn sổ thiêng liêng ấy cho hai đứa cháu. Chú hứa rằng: “Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày”.
Cuốn sổ của gia đình và người chú như một nguồn khích lệ thi đua lập công giết giặc từ những đứa cháu. Chú còn bảo rằng: “Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước” rồi “chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi nước mắt”,. Chú biết rằng các cháu khi ra trận thì ranh giới giữa sự sống với cái chết thật sự mong manh. Gia đình của chú đã bị mất đi toàn những người yêu thương nhất và có thể chú cũng sẽ mất đi cả những đứa cháu mà chú coi chúng như con đẻ của mình.
Là một người lao động chân chất nhưng tâm hồn của chú lại bay bổng và dạt dào. Chú hay cất lên giọng hò nhằm gửi gắm những tâm tình và ước mơ để nhắn nhủ với các cháu. Chú năm là đại diện cho truyền thống gia đình, đại diện cho lời nhắn nhủ của bậc cha chú với các cháu về một cuộc đấu tranh giành lại độc lập và hạnh phúc cho gia đình.
Tiếp đến là nhân vật Chiến – chị gái của Việt – cô cháu gái vô cùng gan gộc của chú Năm. Chiến là cô gái sở hữu những nét đẹp ngoại hình và tính cách y hệt mẹ. Người mẹ có thể đã ngã xuống vì bom đạn của kẻ thù nhưng má sẽ còn tái sinh trong máu thịt và sống mãi trong cuộc đời của những người con. Nguyễn Thi đã có ý thức tô đậm nét thừa kế từ người mẹ ở nhân vật Chiến.
Chiến cũng có vóc dáng chắc nịch, đủ sức để có thể vượt qua bao gian khổ như má. Ba má đều đã mất sớm, hơn em trai chỉ có một tuổi nhưng Chiến đã tỏ rõ sự già dặn và khôn ngoan, biết lo toan quán xuyến mọi việc trong gia đình một cách hợp lý, chu đáo. Nhà chỉ còn có ba chị em phải tự trông nom và bảo ban nhau. Chiến cũng tỏ rõ vai trò một người chị cả vô cùng đảm đang của mình.
Ngày Chiến và Việt cùng ghi tên vào tòng quân, chỉ còn mỗi thằng Út em mới có mười tuổi vì vậy mà nhà cửa, ruộng vườn phải thu xếp làm sao cho hợp lý. Những sắp đặt của Chiến cho thấy rằng cô thực sự là một người đã trưởng thành, chín chắn, biết suy nghĩ mọi việc. Những giờ phút thiêng liêng giữa việc đi và ở, giữa cuộc sống ở quê nhà và ở quân ngũ, giữa cái quen và lạ khiến cho Chiến thao thức không tài nào ngủ được.
Suy nghĩ và hành động của nhân vật Chiến đã lộ rõ nét đẹp của con người hy sinh vì cộng đồng. Chiến bàn bạc với Việt để nhà lại cho “xã mở trường dạy học”, và để “giường quán cũng cho xã mượn làm bàn ghế học”. Ruộng đất do cách mạng cấp thi trao lại cho chi bộ bà con cô bác khác để làm lụng. Chuyện công và chuyện tư đều đã được Chiến tính toán kỹ càng, thấu đáo. Các dụng cụ của gia đình như chén, cuốc, đèn, vá, nơm, soi đều gửi chú Năm để cho chị Hai muốn lấy thứ gì thì lấy, hai công mía thì nhờ chú Năm đốn để dành làm giỗ cho má.
Hai chị em quyết định sẽ khiêng bàn thờ sang gửi chú Năm để có thể yên tâm đi chiến đấu. Cuộc sống thiếu đi mẹ đã tôi luyện Chiến trở nên già dặn, chắc chắn và khôn ngoan trước tuổi. Biết cậu em trai của mình vẫn còn vô tâm và vô tư lắm, nhưng Chiến vẫn ngồi bàn bạc với em một cách kỹ càng và nghiêm trang. Má anh hùng thì sẽ đẻ ra con anh hùng. Là một nữ nhi nhưng khí phách của Chiến không khác đấng nam nhi thời ấy. Chiến biết tội ác của bọn giặc không hề có sự phân biệt giữa nam nữ, già trẻ… Vì thế đã làm cho người Việt Nam phải góp thêm công sức cho kháng chiến.
Chiến nhất quyết không chịu nhường em vào bộ đội, không chịu thua kém em về khí phách. Những câu nói của Chiến vào đêm trước ngày đi xa chính là lời thề tựa như dao chém đá: “Chú Năm nói mày với tao đi kì này là ra chân trời, mặt biển, xa nhà ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về thì chú chặt đầu”; “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.
Nhân vật Chiến là một mẫu nhân vật đại diện cho thời kỳ kháng chiến chống giặc Mỹ. Đó là chiến sĩ Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai,… những nữ chiến sĩ anh hùng con cháu của Trưng Trắc và Trưng Nhị. Tính lịch sử của các nhân vật toát lên qua vẻ đẹp tinh thần cũng như sự hy sinh cao cả.
Con sóng vươn ra xa nhất, cao nhất trong dòng sông truyền thống của gia đình là Việt. Việt mới chỉ mười tám tuổi, vẫn còn bắn chim, bắt ếch, câu cá… Việt đều rất thích. Bao giờ Việt cũng sẽ giành phần hơn cho chị. Gia đình có truyền thống yêu nước và yêu cách mạng như một sợi dây giúp xâu chuỗi thế hệ này với thế hệ kia đã sinh thành và nuôi dưỡng Việt. Những hình ảnh về người thân đã bị kẻ thù giết hại vẫn còn hằn sâu trong tâm trí Việt và hun đúc trong Việt lòng căm thù ngùn ngụt, tinh thần quả cảm đã hình thành trong Việt từ rất lâu rồi.
Trong trận chiến đấu đầu đời, mặc dù có bị thương rất nặng, nhưng sự cố gắng chịu đựng ở cậu chiến sĩ trẻ ấy rất đáng khâm phục. Khắp người Việt không còn chỗ nào lành lặn. Việt như cảm thấy tê dại cả tay chân. Khắp người nước hay máu cũng không biết, chỗ thì ướt sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ lại khô cứng […]. Trời tối đi một cách kỳ lạ, Việt cho mũi lê đi phía trước, rồi tới hai bàn tay, hai bàn chân nhức nhối thì cho nó đi phía sau cùng. Sau đó Việt bò gấp đi qua những cái gì nữa cũng không cần biết. Cậu cũng quên rằng khắp người mình đang rỉ máu. Trong mơ hay thực thì tình cảm về người thân và đồng đội luôn là nguồn động lực tạo nên sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn cho Việt.
Trong hoàn cảnh ấy người lính giải phóng quân vẫn rất bình tĩnh, chủ động mà không hề run sợ. Hiện tại và cảnh ngộ lúc này, thật khủng khiếp dễ đưa con người vào trạng thái hết sức hoảng hốt và lo âu. Nhưng tâm trí vẫn sẽ đưa Việt trở về với biết bao kỉ niệm đẹp của những ngày vừa qua. Biết bao căm thù sâu sắc và Việt cũng vẫn yêu thương tha thiết những người thân cùng những người đồng đội, đồng chí.
Tình yêu với quê hương, đất nước không phải điều gì lớn lao mà nó sẽ bắt nguồn từ tình yêu thương với những người ở xung quanh ta. Mẫu số chung của những con người thuộc gia đình Việt là truyền thống về gia đình, là lòng căm thù quân xâm lược sâu sắc. Yêu thương và căm thù chính là hai nguồn sức mạnh hình thành nên tính cách đặc biệt ngoan cường khi nói đến nhân vật của Nguyễn Thi.
Ngòi bút của nhà văn mang đậm chất dữ dội, thực tế đầy khốc liệt và bão táp của cách mạng đã tạo nên họ, những nhân vật sử thi trong thời đại ngày nay. Họ không là những anh hùng do chính thời đại sản sinh mà đó còn là những vị anh hùng, từ sự tiếp nối cùng sự phát huy truyền thống, nếp nhà, một văn hoá thiêng liêng mà bao thế hệ trước đã truyền lại cho lớp con cháu phía sau.
Cảm hứng về những con người trong tác phẩm của Nguyễn Thi chính là cảm hứng sử thi, cảm hứng ngợi ca những con người vùng Nam Bộ vô cùng anh hùng. Đây là một đặc trưng trong thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nói chung và truyện ngắn của tác giả Nguyễn Thi nói riêng.
Những đứa con trong gia đình không chỉ phản ánh đời sống chân thực mà còn khắc họa lên những tấm gương chiến đấu oanh liệt mãi mãi sáng ngời mà nó còn mang đậm khuynh hướng sử thi. Nó cũng là nhận xét vô cùng khái quát cho toàn bộ sáng tác của nhà văn Nguyễn Thi và văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ.
Phân tích Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi - Bài làm 2
Nguyễn Thi, một người nghệ sĩ tài ba, không ngừng tìm kiếm và sáng tạo từ những chất liệu đã được khai thác một cách đầy đủ bởi nhiều người trước đây. Ông tạo ra những tác phẩm mới, tạo nên một đứa con tinh thần thực sự của mình. Trong thời kỳ kháng chiến, văn học cách mạng đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các tác giả. Tuy nhiên, việc khai thác liên tục sẽ dần cạn kiệt. Nguyễn Thi đã tìm ra một cách tiếp cận khác, khai thác đề tài mà nhiều người đã khám phá và khai quật.
Khác biệt với nhiều nhà văn khác, Nguyễn Thi không chỉ nhìn vào chiến tranh từ các góc độ khác nhau như vẻ đẹp của con người trong cuộc chiến, hay chiến tranh như một cơ hội để tâm hồn con người hiện lên. Ông nhìn vào chiến tranh từ một góc độ khác - góc độ gia đình. Qua việc khai thác đề tài này, Nguyễn Thi đem đến cho người đọc một cái nhìn mới về chiến tranh, về số phận và phẩm chất của con người.
Các nhân vật trong truyện được xây dựng với tên tuổi và cá tính riêng. Tuy nhiên, cá tính của mỗi người luôn có nguồn gốc từ gia đình, nơi mà họ sinh ra và thuộc về. Tính cách này đã tồn tại trong tất cả thành viên gia đình và được thế hệ sau tiếp tục phát triển, bổ sung thêm những nét mới. Ví dụ, nhân vật Việt sinh ra trong một gia đình giàu tinh thần chiến đấu. Ngay từ khi còn nhỏ, Việt đã cùng chị lớn tuổi chuẩn bị nhập ngũ. Anh đã dối tuổi của mình, nói "em mười tám, chị Chiến em mười chín". Chị gái yêu thương anh và nói: "Đến Tết này anh mới được mười tám tuổi đấy! Anh nói để anh đi trước, em ở nhà, chờ đúng thời gian để chú Năm sắp xếp cho anh đi. Nhưng anh không chịu". Vậy là nguồn mạch, dòng máu yêu nước trong gia đình hai chị em Việt Chiến đã được hình thành từ những thế hệ trước đó. Để giải quyết vấn đề này, chú của Việt và Chiến đã lên tiếng: "Tôi muốn nói với đồng chí trưởng đội rằng, cả hai đứa là cháu tôi, và cả hai đều tận tụy theo Đảng. Tôi rất vui mừng về điều đó. Vì vậy, xin hãy ghi tên cả hai. Công việc lớn sẽ theo công việc lớn, còn những việc nhỏ bé sẽ được thu xếp sau". Điều này cho thấy tính cách này đã được thể hiện rõ ràng và toàn diện trong gia đình Việt Chiến. Tính cách này được hình thành từ tình yêu đất nướcvà sự căm thù sâu sắc đối với kẻ thù trong gia đình.
Nguyễn Thi đã thành công trong việc xây dựng những nhân vật sống động và đa chiều trong truyện. Mỗi nhân vật mang tên và cá tính riêng, nhưng đặc điểm cá nhân của họ luôn có nguồn gốc từ gia đình mà họ sinh ra và lớn lên. Gia đình là một yếu tố quan trọng trong việc định hình tính cách của mỗi người. Điều này cho thấy sự kế thừa và phát triển của tính cách qua các thế hệ. Ví dụ, nhân vật Việt sinh ra trong một gia đình giàu tinh thần chiến đấu. Ngay từ khi còn trẻ, Việt đã cùng chị gái điều chỉnh sẵn sàng để nhập ngũ. Anh ta đã nói dối về tuổi của mình, nói rằng "em mười tám, chị Chiến em mười chín". Chị gái yêu thương anh và nói: "Đến Tết này anh mới được mười tám tuổi đấy! Anh nói để anh đi trước, em ở nhà, chờ đúng thời gian để chú Năm sắp xếp cho anh đi. Nhưng anh không chịu". Điều này cho thấy tính cách yêu nước và lòng căm thù kẻ thù đã truyền dạy từ gia đình và được thể hiện một cách rõ ràng trong gia đình Việt Chiến.
Trong gia đình này, tính cách đó được truyền dẫn từ thế hệ này sang thế hệ khác một cách toàn diện. Tình yêu đất nước và lòng dũng cảm của gia đình đã tạo nên một cảm hứng vô hạn cho Việt Chiến. Tuy vậy, không chỉ sự yêu nước mà cả những khía cạnh khác của con người cũng được Nguyễn Thi khai thác một cách tinh vi. Ông đã đem đến cho người đọc một cái nhìn mới về chiến tranh, về số phận và phẩm chất của con người.
Truyện của Nguyễn Thi là một tác phẩm nghệ thuật đặc biệt, khiến người đọc suy ngẫm về ý nghĩa của gia đình và tầm quan trọng của nó trong việc hình thành tính cách con người. Từ những nhân vật sống động đến việc khai thác đề tài chiến tranh từ góc độ gia đình, Nguyễn Thi đã tạo nên một tác phẩm văn học độc đáo và sâu sắc. Qua truyện, chúng ta nhận thức được rằng gia đình không chỉ là nơi chúng ta sinh sống mà còn là nơi chúng ta học hỏi, trưởng thành và truyền dạy những giá trị quan trọng nhất trong cuộc sống.
Thứ hai, một trong những yếu tố quan trọng được thể hiện rõ nét trong tác phẩm là văn hóa cộng đồng. Văn hóa cộng đồng được tác giả lồng ghép một cách tinh tế trong câu chuyện đêm Việt bị thương khi cậu nằm giữa rừng. Điều gây lo lắng và sợ hãi không chỉ là vết thương hay nỗi đau về thể xác mà chính là sự cô độc. Việt không được sống chung với mọi người, không được cùng chiến đấu, và cậu phải đối mặt với sự cô đơn một mình, không biết cái chết sẽ đến bất cứ lúc nào. Sự cô đơn ấy làm cho cậu sợ hãi và lo lắng. Vì vậy, trong những lúc mê man, Việt thường nhớ về những ngày thơ ấu, khi cậu sống cùng chị và chú Hai, và lại nhớ đến những người đồng đội của mình. Cách tái hiện quá khứ đó giúp Việt cảm thấy ít cô đơn hơn, giúp cậu có thể kết nối với mọi người.
Sự sợ hãi cô đơn đó có thể được giải thích bởi một số nguyên nhân, trong đó gia đình là một yếu tố quan trọng. Gia đình là nơi mỗi người được sinh ra, và chúng ta đều có một sợi dây vô hình nối kết tất cả thành viên trong gia đình lại với nhau. Đối với Việt, gia đình không chỉ là nơi cậu có thêm động lực sống và chiến đấu để trả thù cho cha mẹ và những người thân yêu, mà còn là nơi cậu cảm nhận được chất "anh hùng mộc mạc" di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cha mẹ của Việt và Chiến là những người dũng cảm, và dòng máu nhiệt huyết đó vẫn chảy trong lồng ngực của hai chị em. Những hành động của thế hệ trước đó luôn ảnh hưởng lớn đến hành động của hai chị em hiện tại. Để gợi nhắc về truyền thống gia đình, Việt thường mơ thấy mẹ trong những bước ngoặt quan trọng nhất cuộc đời cậu, như khi cậu nhập ngũ hay bị thương. Hình ảnh mẹ hiền hòa xuất hiện trong tâm trí cậu như một nguồn năng lượng tinh thần đặc biệt, truyền thêm sức mạnh cho cậu. Những hình ảnh của mẹ cũng thường xuất hiện trong những thời điểm quan trọng, thể hiện niềm tin và đức tin của những người sống với những người đã khuất, niềm tin vào sự bảo vệ và che chở.
Được viết theo một cách rất mộc mạc, giản dị và tự nhiên, Nguyễn Thi đã làm nổi bật cách khai thác chủ đề truyện. Việc sử dụng điểm nhìn trần thuật linh hoạt dựa trên quan điểm của nhân vật làm cho dòngchuyện trở nên chân thực và gần gũi với độc giả. Từ góc nhìn của Việt, chúng ta có thể tận hưởng những suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc của cậu, đồng thời cảm nhận được môi trường và tình huống mà cậu đang trải qua.
Ngoài ra, tác phẩm cũng khắc họa một cách tinh tế về tình yêu và lòng hiếu thảo. Mặc dù Việt đã trải qua nhiều khó khăn và đau khổ, nhưng tình yêu và lòng hiếu thảo vẫn luôn tồn tại trong trái tim cậu. Việt luôn nhớ về những người thân yêu đã hy sinh vì cậu và không ngừng tìm kiếm cách để trả ơn. Tình yêu và lòng hiếu thảo này giúp cậu vượt qua những thử thách khắc nghiệt và đối mặt với sự cô đơn và sợ hãi.
Cuối cùng, tác phẩm cũng đề cao lòng can đảm và ý chí kiên cường. Dù bị thương và cô đơn, Việt không bỏ cuộc mà vẫn kiên trì sống sót và chiến đấu. Cậu quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để thực hiện những ước mơ và mục tiêu của mình. Từ câu chuyện của Việt, chúng ta có thể rút ra bài học về sức mạnh của ý chí và quyết tâm trong cuộc sống.
Tóm lại, trong tác phẩm "Đêm Việt bị thương", văn hóa cộng đồng, gia đình, tình yêu, lòng hiếu thảo, lòng can đảm và ý chí kiên cường là những yếu tố quan trọng được thể hiện một cách tinh tế và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân vật chính - Việt. Nhờ vào những yếu tố này, câu chuyện trở nên sâu sắc và gắn kết với độc giả.
Phân tích Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi - Bài làm 3
Nguyễn Thi (sinh năm 1928, mất năm 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở xã Hải An, huyện Hải Hậu thuộc tỉnh Nam Định, ông đi vào miền Nam sinh sống từ năm 1943, tham gia cách mạng vào năm 1945. Năm 1954, ông được tập kết ra Bắc, công tác ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác dưới nghệ danh là Nguyễn Ngọc Tấn. Đến năm 1962, ông tình nguyện quay lại Nam, công tác ở Cục chính trị Quân giải phóng miền Nam. Thực tế chiến đấu khốc liệt của chiến trường là nguồn cảm hứng bất tận để ông có thể sáng tác ra những bút ký, truyện ngắn và tiểu thuyết với nghệ danh Nguyễn Thi.
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi có tầm ảnh hưởng của văn nghệ giải phóng miền Nam giai đoạn đánh giặc Mỹ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người người dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi được bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu khốc liệt, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn chìm đắm chất trữ tình.
Nguyễn Thi viết được rất nhiều thể loại: từ bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết… Sau khi ông hi sinh, những sáng tác của ông vẫn được sưu tập và in vào trong Truyện và kí Nguyễn Thi, xuất bản vào năm 1978; Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi toàn tập (bao gồm 4 quyển) xuất bản vào năm 1996. Năm 2000, ông lại được Nhà nước truy tặng danh hiệu Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Những đứa con trong gia đình là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả Nguyễn Thi. Truyện được viết vào những ngày chiến đấu hết sức gian khổ và ác liệt nhất nơi chiến trường miền Nam. Qua truyện, tác giả đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Nam Bộ và khẳng định rằng: lòng yêu nước cùng sự căm thù giặc, tình cảm gia đình thiêng liêng luôn là sức mạnh tinh thần to lớn nhất của họ trong giai đoạn chống giặc Mỹ cứu nước.
Truyện kể về hai người chị em trong một gia đình có mối thù sâu với bọn giặc Mỹ cùng bè lũ tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa và ruộng vườn cho người chú để tham gia vào bộ đội, trực tiếp cầm súng lên trả thù cho nhà, đền nợ cho nước. Đoạn trích nằm ở đoạn giữa của truyện, kể về một tình huống vô cùng đặc biệt của nhân vật Việt. Trong một trận chiến ác liệt, anh đã bị thương nặng và bị lạc đơn vị. Việt bị ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống với cái chết vô cùng mong manh. Nhưng cũng chính vì vậy mà mong muốn được sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt nhớ đến má, nhớ đến những người đồng đội, nhớ những giây phút không thể quên trước khi đi nhập ngũ của cả hai chị em. Những hình ảnh về người dân và cảnh vật quê hương bỗng hiện lên rõ nét trong tâm trí của Việt.
Đoạn trích có thể chia thành hai cảnh, trong đó cảnh một tác giả đã kể về một tình huống và tâm trạng của nhân vật Việt lúc bị thương còn cảnh thứ hai là cảnh mà Việt nhớ đến chuyện hai chị em tranh giành nhau việc nhập ngũ và sau đó thì cùng nhau thu xếp nhà cửa để lên đường đi chiến đấu. Ở cảnh thứ nhất, lần thứ tư Việt tỉnh lại, trong ký ức đã hiện lên những kỉ niệm vui có buồn có về người mẹ thân yêu luôn luôn đùm bọc, che chở cho đàn con: Má đang bơi xuồng hay má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy và rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Cả chị lẫn em đều nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đó quanh đây. Má biến theo ánh đom đóm phía trên nóc nhà hay đang ngồi tựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?
Trong những đoạn khác, Nguyễn Thi đã chọn những chi tiết điển hình chứa nhiều hàm ý nghĩa nhằm khắc họa lên hình tượng của người phụ nữ một tay thì bồng con, một tay lại cắp rổ đi theo thằng giặc mà đòi đầu chồng, hoặc hiên ngang dám đối đáp với kẻ thù khi hai bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con còn đang nép dưới chân. Mỗi khi bọn lính bắn dọa, mắt má sắc lẹm lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt qua sông, vượt qua biển… Đó chính là hình ảnh của người phụ nữ vùng đất Nam Bộ gan góc, kiên cường với lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc đến sự thương chồng thương con hết mực. Cuộc sống vốn lam lũ vất vả, chồng chất những đau thương nhưng họ vẫn luôn cắn răng chịu đựng, vượt qua mọi việc để nuôi con và đánh giặc.
Hình ảnh chú Năm hiện lên với nhiều phẩm chất đặc trưng của dòng tộc, gia đình. Giữa lúc anh cán bộ huyện còn đang phân vân không biết phải giải quyết thế nào trước tình cảnh của hai chị em Chiến, Việt giành nhau ghi tên xin nhập ngũ thì chú Năm lại đứng ra để bảo lãnh cho cả hai qua hình ảnh từ dưới sân, chủ Năm đã bước lên. Chú nheo mắt nhìn vào chị em Việt và nói với anh cán bộ rằng:
– Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.
Chú Năm vẫn hằng ngày cẩn thận ghi chép đầy đủ những tội ác dã man của lũ giặc đối với dòng họ và gia đình mình cùng với chiến công của những thành viên vào một cuốn sổ truyền thống. Khi Chiến và Việt đang chuẩn bị lên đường, chú Năm đã bàn giao cuốn sổ ấy cho hai chị em:
“Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kỳ đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước - Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày.”
Cuốn sổ ấy tuy nhỏ bé nhưng ý nghĩa thì vô cùng lớn bởi nó vừa biểu dương được công trạng của từng thành viên trong gia đình lại vừa là một tấm bia đạn căm thù, vừa thể hiện được quyết tâm muốn đánh giặc của cả một đại gia đình. Trước kia, cuốn sổ đó do thế hệ của cha chú giữ gìn và ghi chép, còn nay con cháu khi trưởng thành, chú Năm cũng bàn giao lại cho thế hệ trẻ để họ viết tiếp. Vì vậy, cuốn sổ ấy cũng chính là câu chuyện về tình cha con, chú cháu cùng đứng lên đánh giặc để giải phóng cho quê hương. Điều đó được thể hiện vừa giản dị mà sâu sắc quy luật phổ biến trong lịch sử Việt Nam, quy luật về sức sống Việt Nam: Đánh đuổi giặc ngoại xâm đã là sự nghiệp chung của rất nhiều thế hệ.
Là một nông dân vừa chất phác vừa giàu tình cảm, mỗi khi làm xong một công việc, tâm hồn của chú Năm lại lâng lâng bay bổng và dạt dào cảm xúc. Chú đã gửi gắm tình cảm tha thiết của chính mình vào những tiếng hò, tiếng hát quen thuộc với quê hương. Lúc hai chị em Chiến, Việt đang chuẩn bị ra trận, chú hoàn toàn tin tưởng rằng các cháu sẽ có đủ sức gánh vác được việc lớn của xã hội. Trong lòng đầy vui vẻ, chú cất lên những tiếng hò thay cho lời nhắn nhủ và lời thề nguyện:
“Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.”
Nhân vật Chiến tuy không được tác giả miêu tả quá nhiều như nhân vật Việt nhưng vẫn hiện lên vô cùng sinh động trong tâm trí của người đọc. Chiến là hình ảnh của một cô gái Nam Bộ rất đảm đang, vị tha và nhân hậu. Những gì quen thuộc và tiêu biểu trong phẩm chất cao quý của người mẹ hầu như đã để lại ấn tượng rất sâu đậm trong cô con gái với cái tên rất con trai là Chiến. Bởi thế nên mỗi khi nghe thấy chị Chiến nói, Việt lại hình dung ra hình ảnh má và thấy chị sao lại giống má đến thế! Điều đó đã làm cho Việt cảm thấy bùi ngùi nhớ má và càng thấy thương chị hơn. Hai chị em tuy với hai tính cách hoàn toàn khác nhau nhưng lại giống nhau ở chỗ đều vô cùng hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết gìn giữ và phát huy được những truyền thống cách mạng của gia đình, của dòng họ và làng xóm, quê hương.
Trong tác phẩm này, Việt là nhân vật được nhắc đến nhiều nhất. Việt vừa có những nét riêng rất dễ mến của một cậu con trai mới lớn là hồn nhiên và hiếu động; vừa có tính cách của một chiến sĩ cách mạng dũng cảm và kiên cường.
Ở cảnh thứ nhất, nhà văn đã cho nhân vật Việt được xuất hiện trong tình huống hoàn toàn đơn độc giữa một trận địa vắng lặng đến rùng rợn sau cuộc giao tranh và giữa sự rình rập của biết bao hiểm nguy, của cái chết có thể ập tới bất cứ lúc nào. Nguyễn Thi đã viết rất hay, rất cảm động về cái cảm giác một mình phải bật lên rõ ràng nhất, nỗ lực nhất của chàng tân binh một thân một mình, lại bị thương rất nặng, hai mắt không còn có thể nhìn thấy gì, sức đã cạn vì đói và khát. Ngón tay của Việt đau không còn kéo nổi cò để bấm súng. Việt lết đi được một đoạn cũng như cả một kỳ công. Anh ngất đi rồi tỉnh lại rất nhiều lần. Ở trạng thái như vậy, người ta có thể nghĩ tới gì? Chắc chắn là sẽ nhớ đến những kỉ niệm vui buồn thân thiết nhất đã hình thành nên đời sống tinh thần của mình. Vì vậy, với việc nhân vật Việt nhớ tới những đồng đội và người thân, tác giả đã khẳng định thêm rằng gia đình là cội nguồn của sức mạnh con người và truyền thống gia đình thực sự rất thiêng liêng:
“…Khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…”
Có một chi tiết thú vị không kém là đánh giặc thì Việt không hề sợ nhưng lại rất sợ ma. Tuy mới chỉ nhập ngũ nhưng Việt đã tỏ ra mình là một chiến sĩ rất thông minh, phân biệt được rõ giữa tiếng súng của ta và tiếng súng của giặc; phán đoán được mọi tình huống của trận đánh như: “Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ.”
Tuy đang lâm vào một tình huống sống chết mong manh nhưng Việt vẫn luôn hướng tới đồng đội, tin tưởng vào một chiến thắng sẽ đến: “Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…”
Đối mặt với cái chết, Việt đã cố gắng tìm lại về với cuộc sống: “Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lỗ nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…”
Đời người chiến sĩ, giữa hy sinh tính mạng với chịu đựng bao nhiêu khó khăn gian khổ hoặc đau đớn về thể xác thì việc hy sinh mạng sống dễ chấp nhận hơn nhiều. Đoạn văn kể lại nghị lực phi thường của nhân vật Việt là khúc ca đã ca ngợi lên tinh thần dũng cảm của người lính chiến giải phóng quân nhỏ tuổi.
So sánh giữa nhân vật Chiến và Việt, ta có thể nhận ra điểm giống nhau giữa hai chị em là đều mang một tình yêu với quê hương, với đất nước và thái độ căm thù lũ giặc sâu sắc. Tuy chỉ là những đứa trẻ ở độ tuổi mới lớn nhưng Chiến và Việt đã khắc sâu vào trong tâm khảm mối thù sâu sắc không đội trời chung với những kẻ đã ra tay giết hại ba má cùng với đồng bào mình. Từ ấy, hai chị em đã xác định được mục đích của cuộc đời mình chính là phải trả thù được cho ba má và cho quê hương. Chính vì mối thù ấy mà cả hai chị em đều nung nấu quyết tâm phải đánh đánh được giặc. Mối thù ấy dường như thôi thúc giúp họ lớn nhanh hơn. Khi nghe Chiến kể chú Năm nói lần này hai chị em sẽ cùng ra đi chiến đấu, thù ba má nếu chưa trả được mà trở lại thì chú sẽ chặt đầu, Việt nói một cách tỉnh queo: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị.” Còn nhân vật Chiến thì cũng khẳng khái nói rằng: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”
Tuy nhiên, sự độc đáo và hấp dẫn trong ngòi bút của Nguyễn Thi ở chỗ ông đã có sự miêu tả khác nhau nên nhân vật Chiến và Việt hiện lên với những cá tính riêng không thể lẫn.
Hơn em chỉ một tuổi nhưng Chiến luôn tỏ ra mình là một người chị khôn lớn và đảm đang, việc gì cũng có thể lo liệu được. Ba má đã mất, Chiến sớm đã ý thức được vai trò của người chủ trong gia đình. Chiến đã phải lớn vượt lên so với lứa tuổi thì mới thay ba má lo liệu được việc nhà và bảo ban các em.
Việt là em nên ỷ lại mọi công việc cho chị, thường bắt chị phải chiều theo ý của mình. Chiến thì nhường nhịn em trong đủ điều nhưng có một việc Chiến sẽ kiên quyết không nhường, đó chính là ghi tên tòng quân. Tính cách của người chị yêu thương em hết mực cũng thể hiện ở chi tiết đó. Thực ra, đây chính là một đức tính hy sinh to lớn, một sự nhường nhịn rất lớn. Chiến muốn giành cho mình phần nguy hiểm để em có thể được sống bình yên. Đoạn văn thuật lại cảnh hai chị em nhân vật Chiến và Việt chuyện trò với nhau vừa mộc mạc lại vô cùng cảm động:
“- Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm, qua năm hãy đi.
Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng:
- Bộ mình chị biết đi trả thù à?
- Hồi đó má nói cho tao đi, mầy ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi sau.
- Má nói hồi nào?
Má chết rồi, không biết ai mà phân chứng. Nhưng chị Chiến vẫn không chịu, việc này đâu có nhường được, chị sang vận động chú Năm.”
Là chị nên Chiến luôn tỏ ra có sự tính toán vô cùng chu đáo, còn Việt thì lại nông nổi và vô tư. Một trong những tình tiết cảm động nhất trong câu chuyện này là cuộc bàn bạc giữa hai chị em vào đêm cuối cùng trước khi ra trận. Họ phải làm những công việc quá sức so với lứa tuổi của mình. Đó là việc thu xếp nhà cửa, làm ăn tới việc nuôi dạy thằng út em và cả việc hương khói cho ba má…
- Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Chú Năm nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng út cũng học ở đây. Mầy chịu không?
Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay:
- Sao không chịu?
- Giường ván cũng cho xả mượn làm ghế học, nghen?
- Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tội chịu hết.
- Má dặn tao hồi nào? Giờ còn có tao với mầy thôi. Nếu đồng ý thì nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vả, đèn soi với nơm để gởi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới, nghen?
- Tôi nói chị tính sao cứ tính mà…
…" Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đảng chia cho cô bác khác mần, nghen? Hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm đám giỗ ba má. Em cũng ừ nghen?
- Ừ!
- Còn bàn thờ má em tính gởi đâu? Gởi sang chủ Năm cho thằng út nó coi chừng hay là để chị Hai về đem đi?
Việt ngóc đầu lên dòm bàn thờ. Từ nãy giờ đang mải với ý nghĩ má đã về, nghe chị hỏi, Việt lại tin má đã về ngồi đâu đó thật. Việt nói:
- Mình đi đâu thì má đi theo đó chớ lo gì mà lo?
- Vậy chở ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm, em có ừ không?
- Ừ!… Mà hồi đó má dặn chị vậy hả?
- Má cỏ biết má chết đâu mà dặn.
Việt sải chân ra giường:
- Vậy mà nói nghe in như má vậy.
Chị Chiến hử một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi.
Chị nói:
- Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy.
Đúng rồi, hèn chi chị nói nghe thiệt gọn. Vậy mà hồi nãy còn giành đi với mình. Việt nghĩ vậy, rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Chiến biết rằng Việt chưa thể lo toan công việc nhà, nhưng nhà chỉ còn hai chị em nên Chiến vẫn phải đem việc nhà ra bàn giao với em một cách dân chủ. Tuy nhiên, Chiến đã dự định được từ trước, mọi việc đã được sắp xếp ngay ngắn, khiến cho Việt cảm thấy chị của mình thật chín chắn, già dặn giống y hệt má. Còn về Việt, trong khi nghe chị nói thì không để tâm, lại để mắt tới mấy con đom đóm và trong lúc chị Chiến vẫn đang nói thì Việt đã lăn ra ngủ từ bao giờ không biết.
Câu chuyện trao đổi của hai chị em cũng đã bộc lộ được phẩm chất đáng quý của tuổi trẻ vùng đất Nam Bộ giai đoạn chống Mỹ: đã ra đi là đã quyết tâm phải chiến đấu và phải chiến thắng. Điều đáng quý nhất của hai chị em là vô cùng thương yêu, lo lắng cho nhau và cả hai đều nhớ tới má: “Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà ra làm sao chớ?” Chị em Việt được sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, cho nên dù cho cha mẹ đã mất nhưng lời căn dặn của cha mẹ vẫn thấm sâu vào trong tâm trí, nhắc nhở các con tỉnh táo trong từng suy nghĩ, từng lời nói cũng như hành động.
Trước khi lên đường thì Việt có đi câu một ít cá về làm bữa cơm để cúng má trước khi dời bàn thờ qua nhà chú… Cúng mẹ và cơm nước xong xuôi, mấy chị em, chú cháu cũng thu xếp hết đồ đạc dời nhà. Người đọc sẽ không thể nào quên được đoạn văn rất cảm động khi tả về cảnh hai chị em Chiến, Việt đang khiêng bàn thờ má qua gửi bên nhà của chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.”
Chỗ hay nhất trong đoạn văn phía trên có lẽ là cái không khí thiêng liêng đã làm thay đổi cả cảnh vật và con người. Con đường quen thuộc bỗng dưng có thêm mùi hoa cam thoang thoảng lại từ chân vườn. Còn đối với nhân vật Việt, cái không khí thiêng liêng đó khiến cậu trở thành một người lớn. Lần đầu tiên, Việt hiểu rõ được lòng mình, bỗng thấy thương chị đến lạ và cảm thấy rất rõ ràng về mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó vẫn đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật vô cùng cô đọng, dồn nén và chất chứa rất nhiều ý nghĩa, vừa là một hành động cụ thể, lại vừa mang yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, lại vừa chan chứa tình yêu thương… Nếu để ý, người đọc có thể thấy tác giả còn tô đậm lại sức vóc của cả hai chị em. Chiến thì hai bắp tay tròn vo lại sạm đỏ màu do cháy nắng… dang cả thân hình to lớn và chắc nịch của mình… nhấc bổng được một đầu bàn thờ của má lên. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp và trưởng thành hơn. Những đứa con trong gia đình giờ đây đã đủ sức cầm súng để đánh giặc như thế hệ của cha mẹ của mình.
Câu chuyện trong đoạn trích được trần thuật lại chủ yếu từ điểm nhìn của các nhân vật chính, dựa theo dòng hồi tưởng có sự đan xen với thực tại, vì thế mà đậm chất trữ tình và rất sống động. Phẩm chất và tính cách của nhân vật được khắc họa rất rõ nét. Trong kí ức của nhân vật hiện lên một cách rõ ràng từng kỉ niệm của quá khứ chưa xa. Đó là những ngày tháng Việt được sống trong tình yêu thương của các đồng đội, của những người thân yêu ở trong gia đình. Quá khứ này đã tạo điều kiện cho nhà văn có thể đi sâu vào trong thế giới nội tâm phong phú của từng nhân vật. Kết cấu của truyện không dựa vào trật tự thời gian. Từ những chi tiết ngẫu nhiên ở hiện thực chiến trường, tác giả đã gợi được những dòng hồi tưởng về quá khứ từ chuyện này sang chuyện khác một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút đặc sắc của nhà văn Nguyễn Thi, nhân vật nào cũng rất sống động và có cá tính riêng. Nhờ ngôn ngữ đậm chất miền Nam Bộ mà tác phẩm cũng trở nên chân thực và sinh động.
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình vừa mang đậm tính hiện thực lại vừa giàu tính trữ tình. Những suy nghĩ cùng cảm xúc của nhân vật Việt được tác giả thể hiện bằng giọng kể vô cùng tự nhiên, mộc mạc rất đúng với tâm trạng của một anh chàng mới lớn, xa gia đình để đi chiến đấu chưa được bao lâu. Điều này phần nào phản ánh được những phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ Giải phóng quân trong hoàn cảnh nguy hiểm và khốc liệt của chiến trường. Sự đau đớn do từng vết thương trên thân thể gây ra không thể làm cho Việt cảm thấy khủng hoảng tinh thần mà ngược lại, anh vẫn rất bình tĩnh sống với những ký ức tuổi thơ gắn bó biết bao kỷ niệm vui buồn và tìm thấy ở đây một nguồn sức mạnh lạ thường. Nhà văn Nguyễn Thi đã bộc lộ phẩm chất tốt đẹp của những người lính không phải qua chiến công mà thông qua nghị lực phi thường và đời sống tình cảm vô cùng phong phú của họ.
Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng giai đoạn đánh Mỹ còn được tác giả khai thác trong đời sống tinh thần vừa giản dị lại cao đẹp của thế hệ trẻ vùng Nam Bộ. Hai chị em Chiến và Việt là những đứa con vừa ngoan ngoãn, hiếu thảo và trong chiến đấu thì họ lại là những người chiến sĩ vô cùng kiên cường và dũng cảm.
Thông qua truyện, tác giả Nguyễn Thi cũng kín đáo đề cập đến một vấn đề mang tính xã hội: Gia đình là một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng to lớn đến quá trình hình thành nhân cách. Những người con đã được giáo dục đàng hoàng trong gia đình sẽ trở thành những thành viên vừa tích cực lại hữu ích cho xã hội. Ở mỗi nhân vật đều có sự gắn bó vô cùng sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình cảm yêu đất nước, yêu cách mạng, giữa truyền thống của gia đình với truyền thống của dân tộc, thà hi sinh tất cả chứ quyết phải giành lại độc lập tự do. Điều ấy đã tạo nên một sức mạnh vô cùng to lớn của dân tộc Việt Nam trong công cuộc chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.