Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Phân tích nhân vật A Phủ

Thứ sáu - 17/05/2024 00:06
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc.

Phân tích nhân vật A Phủ - Bài làm 1

“Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu.” 


Qua lời thơ của nhà thơ Chế Lan Viên gợi nhắc cho người đọc về vùng đất Tây Bắc hoang sơ, thần bí. Tây Bắc đâu chỉ hiện lên trong hồn thơ của Chế Lan Viên mà ta còn thấy nó được nhà văn Tô Hoài vẽ lên theo một cách rất riêng về con người, phong tục và cảnh sắc nơi đây. Và một trong số đó là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được tác giả xây dựng thành công hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất con người nơi đây gan trong toàn bộ câu chuyện.

Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam , với số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Đa phần các tác phẩm ông viết đều gắn liền với cuộc sống hàng ngày cùng phong cách trần thuật vui tươi, hóm hỉnh về phong cách sống, sinh hoạt của người dân vùng núi Tây Bắc. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ chính là một thành quả sau chuyến đi thực tế năm 1952 cùng với cán bộ bộ đội lên giải phóng Tây Bắc. Chính nhờ chuyến đi ấy mà Tô Hoài có thêm cái nhìn sâu sắc về tình cảm con người và cảnh sắc nơi núi rừng Tây Bắc. Câu chuyện chủ yếu xoáy sâu vào phản ánh số phận cuộc đời con người lao động nghèo nơi đây luôn hi vọng, khát khao sự tự do trong cuộc sống đau khổ, tù đày.

Chàng trai A Phủ xuất hiện trong nửa sau của câu chuyện hiện lên với xuất thân từ gia đình có hoàn cảnh nghèo khó. Vì trận dịch đậu mùa mà mất đi cả cha lẫn mẹ và bị người làng bắt bán cho người Thái để đổi lấy lương thực thế nhưng anh không chịu khuất phục với số phận thì A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên vùng cao và sống cuộc sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài. Đến khi trưởng thành, A Phủ vẫn sống trong hoàn cảnh nghèo đói với đôi bàn tay trắng nên không thể lấy được vợ. Chính bản lĩnh gan góc, liều lĩnh, sức sống tiềm tàng đã tôi luyện trong những ngày tháng cơ cực đó mà tạo lên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ.

Khi trưởng thành, anh càng chứng tỏ mình là con người gan góc, khó có thể khuất phục bởi điều gì, cay đắng cuộc đời mà vươn lên những điều tốt đẹp. Chàng “biết đúc lưỡi cày, đi săn bò rất bạo”. Chẳng những lao động giỏi mà A Phủ còn có sức mạnh hơn người, chạy nhanh như ngựa. làm bất cứ công việc gì cũng phăng phăng, nhanh thoăn thoắt. Bởi thế anh nhân được sự mến mộ của rất nhiều cô gái.

 Tuy nghèo khó cơ cực nhưng anh vẫn luôn sống lạc quan, yêu đời, tin vào tương lai phía trước. Ngày lễ Tết, A Phủ không xúng xính có quần áo mới như những anh con trai khác chỉ có mỗi chiếc vòng cổ nhưng A Phủ vẫn cứ đi chơi cùng trai làng, đem sao, con quay đi tìm người yêu ở làng. Nhiều người nói rằng lấy được A Phủ như có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu. Chẳng những thế, A Phủ bên trong còn là một con người xông xáo, trọng tình nghĩa, gặp chuyện bất bình dù biết phần thiệt vẫn gan dạ để bảo vệ cái đúng.

Chính vì tính cách phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải nên A Phủ đã dám đánh lại con nhà quan khi hắn phá đám chơi ngày Tết. "A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đẫu xuống xé vai áo đánh tới tấp". Hành động đó củaA Phủ không phải là một hành động tự phát mà là hành động thể hiện mối thù giai cấp. Sau đó bọn cha con thống lí đánh đập A Phủ từ trưa cho tới đêm muộn, tra tấn tàn ác, mạn rợ đến mức mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu, hai đầu gối sưng cũng không tha. Thế nhưng bọn người nhà thống lí “Cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, cành hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi”. A Phủ không hề khóc lóc nài van khi bị hành hạ tàn ác mà vả lại còn im lặng chịu đòn roi, im như tượng đá. Sự im lặng của anh cho thấy bản lính không chịu khuất phục dù mình là ai và sự căm phẫn tột độ nhưng chẳng thể làm gì để chống cự lại được.  Từ đó để thấy được con người, cuộc sống khốn cùng của người dân nghèo miền núi dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, họ bị đánh đập, tra tấn chẳng khác gì một con vật. 

Cuối cùng, với cách xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ không công suốt đời cho nhà thống lí. A Phủ phải ợ đợ cho nhà thống lí, làm viêc không công cho nhà thống lí đến khi nào gạt hết nợ. Đó là một kiếp người bị khinh re, ngược đãi và phải đảm đuogưn những công việc nặng nhọc và bòn rút đi sức lao động thể chất của con người "đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng".

Với cách xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy gia cấp địa chủ thống trị luôn tìm cách để nhấn chìm, dồn người nông dân bần cùng xuống đáy của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào được ngoi lên đòi quyền sống, quyền làm người đúng nghĩa. CHế độ phong kiến miền núi tàn độc đến mức nắm giữ mạng sống của con người. Bắt họ là một con nợ là nô lệ, được nắm trong tay quyền sống còn của họ. Từ đó để thấy được sự tàn bảo trong lối suy nghĩ và cách hành động cổ hủ, phong kiến của bọn thống trị miền núi. 

Tuy thảm và tuyệt vọng như vậy nhưng bản tính gan góc của A Phủ không cho anh bị yếu thế hơn họ. Chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ đã đã bị đánh, bị trói vào cọc. Rất có thể anh sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét”. Sau bao ngày bị A Phủ "trói đứng ở trong góc nhà", "chỉ đứng nhắm mắt". Dường như A Phủ lúc đó đang nằm giữa ranh giới cái chết và sự sống, thần chết có thể tìm đến bất cứ lúc nào, còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sự bất lực tuyệt vọng trong A Phủ chẳng thể nào tự cứu lấy bản thân mình. A Phủ không cam chịu, dù bị trói đứng, rất khát, đói, rét trong cái lạnh cắt da cắt thịt nhưng anh vẫn cố gắng vớt vát những điều để giúp mình trốn thoát, anh nhai đứt hai vòng dây trói nhưng không thoát ra nổi. Dây chưa kịp đứt thì trời vừa sáng, Pá Tra lại trong thêm vào cổ A Phủ một vòng dây trói nữa. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do cứ thế lăn dài trên hai hõm má đã xám đen. Và chính khi thấy giọt nước mắt ấy Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và kiếp sống khốn cùng của mình.Từ những nét vẽ trên, Tô Hoài muốn cho ta thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.

Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết A Phủ vẫn vùng lên chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này. Chính anh còn là tác nhân đánh thức sức mạnh tiềm tàng trong Mị trỗi dậy, cứu thoát cả cuộc đời nô lệ của Mị. A Phủ và Mị là một trong những hiện thân tiêu biểu cho sự nỗ lực của người dân tộc thiểu số vùng cao dưới áp bức bóc lột của bọn cai trị phong kiến miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới ánh sáng chiếu soi cứu rỗi hai số phận bất hạnh.

Qua ngòi bút điển hình hòa và cụ thể hóa của mình, Tô Hoài đã xây dựng nhân vật mang những nét phẩm chất số phận tương đồng nhưng điểm khác nằm ở cách thay đổi, biến hóa sao cho phù hợp với con người hiện thực. Dù không được Tô Hoài dành tận tâm, tận lực nhấn mạnh nhưng nhân vật A Phủ điển hình hóa cho hình tượng nhân vật mà tác giả muốn khắc họa. Thông qua việc phản ánh số phận của A Phủ, nhà văn còn qua đây lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị phong kiến miền núi đồng thời bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Từ trong bóng tối của cuộc đời đầy đau khổ, tủi nhục, họ đã vươn lên tìm thấy được ánh sáng rực rỡ của ánh sáng của Cách mạng. Đấy cũng là giá trị nhân đạo, mới mẻ sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm đến bạn đọc.
 

Phân tích nhân vật A Phủ - Bài làm 2

Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. "Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút". Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ,nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ - nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
 

Phân tích nhân vật A Phủ - Bài làm 3

Cùng sinh năm 1920 và đều là hai cây bút văn xuôi nổi tiếng, nhưng nếu Kim Lân là nhà văn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” thì Tô Hoài lại có bút lực dồi dào không ngừng nghỉ. Đến năm 90 tuổi, ông vẫn không ngừng viết văn và để lại nhiều tác phẩm ấn tượng. Nổi bật trong số đó là “Vợ chồng A Phủ”.

Tác phẩm xoay quanh không khí và văn hóa của đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. Cả tác phẩm là một cuộc trỗi dậy mạnh mẽ về tinh thần của người dân lao động khốn khổ chống lại áp bức bất công của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Mở đầu tác phẩm câu chuyện về một cô gái: “Cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa”, “dù làm việc gì, việc nhẹ hay việc nặng cô đều cúi mặt mặt buồn rười rượi”. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật được tác giả sử dụng là phác họa ngoại hình mà thực chất để thể hiện thế giới nội tâm. Đây là một cách giới thiệu tạo sự chú ý của người đọc. Tác giả còn sử dụng thủ pháp tương phản: đặt nhân vật ở thế trái ngược với hoàn cảnh xung quanh khiến người đọc tò mò phải đặt ra các câu hỏi: “cô ấy là ai”, “tại sao cô ấy buồn”. Mị vốn là một cô gái dân tộc xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Nhưng hoàn cảnh đưa đẩy khiến cô gái ấy trở thành con dâu gạt nợ của nhà Thống lí Pá Tra. Món nợ của bố Mị khi cưới mẹ Mị. Đây là món nợ truyền kiếp đối với người người lao động nghèo, nó chẳng khác gì một thứ tội: “tội tổ tông”. Đối với bọn phong kiến, đây là hình thức cho vay nặng lãi đẩy người lao động nghèo vào tình trạng bị bần cùng hóa. Gia đình thống lí lợi dụng hủ tục của miền núi (tục cướp vợ) để bắt cóc Mị. Bản thân cô Mị đang hồi hộp đêm hò hẹn đầu tiên, trong lòng đang ngập tràn hạnh phúc thì rơi xuống đáy sâu của nỗi bất hạnh. Bọn chúng còn lợi dụng tục “cúng trình ma” để hoàn chỉnh việc biến một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, hiếu thảo, chăm chỉ, tự trọng và nhất là yêu tự do, khát khao tình yêu trở thành một nô lệ. Thông qua đó, tác gỉa gián tiếp tố cháo sức mạnh của cường quyền và thần quyền đang đè nặng lên cuộc sống của nhân dân đồng bào miền núi.

Cuộc sống của Mị ở trong nhà thống lí cũng là một chuỗi bất hạnh. Ban đầu Mị không chấp nhận mình trở thành con dâu gạt nợ, Mị phản kháng có phần tiêu cực: khóc, định tử tự. Nhưng vì thương cha mà mà từ bỏ ý định. Cuộc sống của Mị trong nhà thống lí bị bóc lột lao động một cách rất tàn tệ, phải làm việc như trâu, ngựa, thậm lí còn khổ hơn trâu ngựa: “con ngựa, con trâu… làm cả đêm cả ngày”. Dần dần, mị trở nên tê liệt ý niệm về thời gian. Căn buồng Mị nằm kín mít, cửa sổ lỗ vuông to bằng bàn tay trông ra bên ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Từ thời gian một ngày đến thời gian một năm, đến thời gian Mị làm con dâu nhà thống lí Mị cũng không còn xác định được nữa. Từ đó, Mị buông xuôi chấp nhận hoàn cảnh, một người tù khổ sai trung thân tàn đời, mãn kiếp là nô lệ bị giam hãm, bị trói buộc. Căn buồng Mị ở là một thứ “ngục thất tinh thần”. Đồng thời, ngôi nhà của cha con thống lí trở thành một cái thứ nhà tù không song sắt giam hãm, biến Mị thành nô lệ.

Từ một cô gái gần như hoàn toàn tê liệt, sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân. Toàn bộ âm thanh, màu sắc, sức sống của đêm tình mùa đông đã làm trỗi dậy khao khát tự do và tình yêu của Mị. Bữa cơm tết cúng ma và bữa rượi tạo nên không khí của ngày tết. Tâm hồn Mị đã sống lại, ý thức về thời gian, về quá khứ về hiện tại. Tiếng sáo xuất hiện trong đêm tình mùa xuân như ngọn gió xuân, xua tan lớp tro tàn và khơi bừng lên những đốm lửa, khơi bừng lên ánh sáng hơi ấm trong tâm hồn Mị: Mị thấy phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi. Càng ý thức được hoàn cảnh, Mị lại càng tuyệt vọng. Khao khát muốn sống nhưng không được sống như cách mình mong muốn khiến Mị lần thứ hai nghĩ tới cái chết. Mị thắp sáng căn buồng như thắp sáng lại cả cuộc đời mình. Không chỉ vậy còn trải chuốt lại bản thân, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa. Đây là bằng chứng rõ nhất của lòng ham sống, chứa đựng khát khao và hạnh phúc. Lập tức Mị bị A Sử trừng phạt: trói vào cột, quấn cả tóc lên cột. Ban đầu Mị còn không biết mình bị trói. Hơi rượu nồng nàn đã đưa Mị đến một cuộc dạo chơi bằng tâm tưởng: Mị thấy mình được tự do. Tiếng sáo càng vang vọng thì đối ngược lại là tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị thổn thức mình không bằng con ngựa. Chính trong hoàn cảnh bất cạnh ấy, Mị đã gặp được A Phủ. Hai người đều được coi là bước ngoặt của cuộc đời nhau. Vì nếu như không có Mị, A Phủ không thể được cứu sống và nếu ngược lại, Mị cũng không thể được thực sự “sống” trở lại.

A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.

Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đòng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đầy đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.

Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình bị trói trong đêm tình mùa đông mà không có một ai đến cứu. Có lẽ, giọt nước mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài và Nam Cao. Nam Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể thanh lọc tâm hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại của A Phủ- một chàng trai người Mông gan góc, khỏe mạnh khác thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?

Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống, khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”. Họ đã cùng nhau xây dựng hạnh phúc trên miền đất mới và giác ngộ lí tưởng Cách mạng. Từ đó họ không chỉ là vợ chồng mà còn là những người chiến sĩ kề vai sát cánh bên nhau để tiêu diệt kẻ thù trở thành một biểu tượng của đồng bào dân tộc miền Núi.

Tác phẩm “Vợ chồng” A Phủ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc: từ cốt truyện cho đến cách tác giả xây dựng nhân vật. Thông qua đó, nhà văn đã thể hiện sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động vùng cao- niềm tự hào cho tâm hồn và phẩm chất của nhân dân Việt Nam.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây