Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Nhà thơ Xuân Diệu viết: “Nguyễn Khuyến mặc dầu không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa cần Vương, vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước” (Thơ văn Nguyễn Khuyển - NXB Văn học, 1974). Hãy giải thích và chứng minh.

Thứ hai - 03/04/2017 06:40
Thế nào là một người yêu nước? Thế nào là một nhà thơ yêu nước? Trong trường kỳ lịch sử, có nhiều thời điểm, những câu hỏi ấy được đặt ra tưởng như bình dị, giản đơn mà đôi khi thật khó trả lời cho trọn vẹn. Câu hỏi ấy cũng đặt ra với nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909) trong thời đại chúng ta. Và nhà thơ Xuân Diệu đã trả lời: “Nguyễn Khuyến mặc dầu không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa Cần Vương, vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”.

Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên đúng vào giai đoạn bi hùng nhất của lịch sử dân tộc: Pháp xâm lược nước ta (1858), triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, cam tâm làm nô lệ, một phong trào yêu nước kháng Pháp nổi lên mạnh mẽ ngay từ buổi ban đầu; sau khi được thổi bùng lên bởi chiếu Cần Vương; biết bao tấm gương hy sinh chói lọi vì độc lập của đất nước. Trong bối cảnh lịch sử đó, nhiều người băn khoăn tự hói: Tại sao Nguyễn Khuyến không làm một Thủ Khoa Huân? Trương Định, Phan Tòng? Nguyễn Trung Trực hay một Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám? Tại sao ông không có mặt trong đội ngũ những chí sĩ cần Vương kháng Pháp. Câu hỏi đó quả có phần nghiệt ngã đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bởi ông đã trót làm quan với triều đình nhà Nguyễn tới chức Bố Chánh. Và mặc dầu cuối đời ông kiên quyết chối từ sự lôi kéo của bọn thực dân, về quê dạy học, sống một cuộc đời thanh bạch... Nhưng quả là ông đã “Không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa cần Vương”. Đó là một sự thật lịch sử. Tuy nhiên, sẽ là vội vã khi chỉ vì thế mà ta kết luận: Nguyễn Khuyến không phải là con người yêu nước, chưa phải là nhà thơ yêu nước.

Không, Nguyễn Khuyến “đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”. Nhưng chúng ta đều biết, mặc dầu Nguyễn Khuyến chưa phải là một chiến sĩ cần Vương xông ra trận tiền đánh giặc, nhưng đọc thơ ông, ta thấy tấm lòng nhà thơ thật nặng tình với quê hương xứ sở, một con người luôn trăn trở, băn khoăn, đau đớn, uất ức trước một xã hội đầy nhố nhăng. Không ra trận, ông làm thơ, nén một nụ cười châm biếm sâu cay vào cái xã hội nửa Tây, nửa ta ấy. Không yêu nước, không nặng lòng với quê hương, xứ sở làm sao tâm hồn ông lại có thể rung động và hòa nhập với phong cảnh làng quê đến thế. Một bầu trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh), một ánh trăng lóe lên trên mặt nước óng ánh. Nếu như trong cuộc đời, Nguyễn Khuyến bất hợp tác với kẻ thù là một bằng chứng, chứng tỏ ông là người yêu nước thì trong thơ văn, tấm lòng yêu nước của nhà thơ thể hiện rất rõ ở tiếng cười châm biếm sâu cay đối với hiện thực xã hội đầy cảnh bất công, ngang trái. Trước hết ta thấy ông đả kích bọn thực dân vơ vét hết tài nguyên của đất nước ta:

“Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm
Nước độc ma thiêng mấy vạn người
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả
Phá tan phên dậu hạ đi rồi”

(Hoài cổ)

Ông vạch trần những trò bịp bợm của thực dân trong ngày Hội Tây và nói lên nỗi nhục của người dân mất nước:

“Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu”


Ông châm biếm những nhà tiến sĩ giấy, thứ quan lại chỉ còn là bù nhìn, con rối trong tay bọn thực dân:

“Ghế chéo lọng xanh ngồi bánh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chai”


Có khi ông mượn lời người vợ hát chèo mà ném thẳng những lời khinh bỉ vào mặt lũ bán nước:

“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”


Nếu như Tú Xương đã đem cái “đít của bà đầm” đặt lên trên “đầu ông cử”.

“Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngóng đầu rồng”


thì Nguyễn Khuyến còn ngang ngược hơn nữa, ông đặt mảnh váy của lũ me Tây, gái đĩ, ngang với lá cờ tam tài của thực dân:

“Ba vuông phấp phới cờ bay dọc
Một bức tượng hoành váy sắn ngang”

(Lấy Tây)

Bên cạnh những vần thơ châm biếm sâu cay ấy, ta còn thấy tình cảm yêu nước thầm kín của Nguyễn Khuyến thấp thoáng trong nhiều bài thơ, khi ông mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự:

“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”


Khi thì ông vịnh Phổng đá trong hòn non bộ để tỏ thái độ của mình:

“Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó
Non nước vơi đầy có biết không?”


Tóm lại, thơ Nguyễn Khuyến dù là thơ phong cảnh hay thơ châm biếm, thơ tự vịnh hay thơ giễu người, thì đó vẫn là thơ của một con người nặng tình với đất nước. Ngay cả những bài như khóc Dương Khuê, ở một phương diện nào đó, cũng là tiếng nói của một con người cô đơn trước thời thế.

Dân tộc ta có một truyền thống yêu nước lâu đời và sâu sắc. Chúng ta cảm ơn những con người yêu nước, khi giặc đến đã cầm súng, cầm gươm ra trận... Nhưng ta cũng vô cùng trân trọng và ghi nhận những tâm hồn cao đẹp, nặng tình, nặng nghĩa với đất nước, quê hương qua những trang thơ, Nguyễn Khuyến là một tâm hồn như thế.

  Ý kiến bạn đọc

DANH MỤC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây