Gần gũi nhất với khí phách của người tráng sĩ năm xưa có lẽ là cảm hứng về “người ra đi” trong thơ thời kỳ trung đại. Nổi trội nhất là hình ảnh người chinh phu dũng mãnh, can trường, xông pha trận mạc:
“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung”
Với “Chinh phụ ngâm”, Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng nên hình tượng “người ra đi” - một hình tượng sẽ xuyên suốt thơ ca các thời kỳ sau này. Thơ ca thời hiện đại, đặc biệt được đánh dấu từ phong trào “thơ mới”, hình ảnh “người ra đi” có ít nhiều thay đổi. Dù vẫn bắt nguồn từ cảm hứng ra đi không về của Kinh Kha nhưng đó đây đã xuất hiện những suy nghĩ không đồng tình với sự việc “bất phục hoàn” đó:
“Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch
Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề”
Thời kỳ này ghi nhận một trường phái thơ “hành” với sự góp mặt của bộ ba Nguyễn Bính; Thâm Tâm; Trần Huyền Trân. Có thể coi trường phái thơ này là tia hồi quang của cách mạng tháng Tám 1945 đối với phong trào “thơ mới”. Cảm hứng lãng mạn trữ tình về “tráng sĩ hành” của thời kỳ này được kế tục ở hai cuộc kháng chiến thần thánh những năm 1946 - 1975. Tuy nhiên, hình ảnh “người ra đi” đã mang một vóc dáng mới — vóc dáng của thời đại. Những tác giả tiêu biểu đã góp phần hoàn thiện bức tranh “người ra đi” thời này phải nói đến Quang Dũng (Tây Tiến) và Nguyễn Đình Thi (Đất nước).
Mặc dù là một hình tượng xuyên suốt lịch sử thơ ca Việt Nam, nhưng “người ra đi” được độc giả chú ý nhiều nhất có lẽ là sự chuyển giao giữa “thơ mới” và thơ kháng chiến. Không ai có thể phủ nhận người chinh phu “thét roi cầu vị” trong thơ ca trung đại có những nét đẹp riêng, sự thu hút riêng. Tuy nhiên, phải chăng người đọc chỉ được chiêm ngưởng vẻ ngoài kiêu hùng, chỉ có được cảm nhận rất chung về những người xông pha trận mạc ấy? Ở họ luôn luôn tìm thấy bụi biên cương và dường như nguyên vẹn cái chí khí “ra đi không về” của Kinh Kha năm xưa. Phải chăng vì thế mà người ta hướng tới một “người ra đi” khác? Ta dễ dàng tìm thấy những nét cảm xúc “một đi không về”; ra đi cô độc “độc hành”; ra đi vì chí lớn, “không vương thê nhi”, không bận chuyện gia đình riêng tư ở một số bài thơ mới:
“Ly khách, ly khách con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong”
Hay:
“Mơ gì áp tiết thiên văn tự
Giày cỏ gươm cùn ta đi đây”
Từ cảm hứng lãng mạn trữ tình về “tráng sĩ hành”, các bài “hành” của thơ mới Việt Nam cũng biểu hiện cả cảm hứng bất bình, phản kháng đối với xã hội đương thời:
“Khóc nhau ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ”
Đặc biệt, có những lúc “người ra đi” không đồng tình với việc ra đi “độc hành”, mà muốn có một sự hợp đoàn:
“Ngoài phố mưa bay: xuân bốc rượu
Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê
- Ới ơi bạn tác ngoài trôi giạt
Chẳng đọc thơ ta tất cũng về.”
Giọng điệu nổi trội nhất trong dàn hợp xướng đa âm thanh của thơ mới mà trường phái thơ “hành” góp vào đó là sự hào hùng, tràn đầy chính khí, tráng khí, bi phẫn, bi hùng. Tuy nhiên, không riêng gì những bài thơ “hành”, ta cũng bắt gặp giọng điệu này ở một vài bài thơ khác:
“Đói nghèo đầy chiếu, đầy chăn
Bút khôn làm kiếm chém phăng bất bình”
Và điển tích Kinh Kha, như một mô típ nghệ thuật có sức tái sinh, lan tỏa trong những bài thơ “hành” tạo nên hình tượng “tráng sĩ hành”. Hình tượng này như là một phương tiện nghệ thuật để các nhà thơ mới biểu hiện cái tôi trữ tình của mình. Đó là sự bất bình, phản kháng đối với cuộc đời nô lệ, với xã hội bất công lúc đó. Các thi nhân cũng bộc bạch nỗi đau buồn của những nghệ sĩ không có tự do, thiếu quê hương và mặc cảm “vong quốc”. Cho nên, hình ảnh “khách chinh phu” thời kỳ này là sự hài hoà giữa người trí thức mang nỗi nhục mất nước và người nghệ sĩ giang hồ say mê cái đẹp thuần tuý, say đắm cảnh thiên nhiên. Ta bắt gặp hình ảnh này trong thơ Thế Lữ:
“Ta là một khách chinh phu
Dấu bước truân chuyên khắp hải hồ
Mũ lợt bốn trời sương nắng gội
Phong trần quen biết mặt âu lo”
Hình ảnh “khách chinh phu” ấy đã biến thành “Li khách” trong thơ Thâm Tâm trong cái không khí lãng mạn của buổi tiễn đưa không hẹn ngày về. Tuy nhiên, “người ra đi” của Thơ Mới chỉ phần nào tạo nên niềm an ủi trong những ngày bằng phẳng, vô vị, tẻ nhạt cho những con người chán đời, thoát ly. Sau khi tiếng vang của cao trào cách mạng 1930 - 1931 nhạt dần thì người “khách chinh phu” cũng chỉ là “khách tình si” và trượt theo con đường xuống dốc. Những khách hải hồ “đem chí bình sinh dãi nắng mưa” ngày nào cũng chỉ là:
“Hỡi ôi người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân vọng hải đài”
Có một thời người ta tìm thấy lý tưởng mơ hồ trong người khách chinh phu; người ta thấy yên tâm vì mình không phải là kẻ sống hèn, sống nhục. Tuy nhiên hình ảnh “người đi” thời kỳ này vẫn in đậm nỗi băn khoăn đau buồn của những người cùng thế hệ, đòi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc nhưng chưa tìm thấy lối ra và nhiều khi rơi vào chán nản (Tố Hữu). Có lẽ chính vì vậy mà “chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” vẫn còn để lại dư âm trên từng câu, từng chữ. Nhưng không lâu sau đó, niềm “bâng khuâng khó hiểu” của “người đi” dường như đã tìm thấy lối thoát trong thơ ca kháng chiến. Không khí sôi nổi, hào hùng, nóng bỏng của cả nước đã tác động lên tất thảy. Không còn những cuộc viễn chinh với không khí bâng khuâng, lưu luyến. Tất cả như sục sôi ý chí lên đường. Hình ảnh “người ra đi” không còn là một khách chinh phu nữa. Bước ra khỏi không khí hoành tráng cổ điển, hình ảnh “người đi” giờ trở thành chiến sĩ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Vẫn là cái ý chí “ra đi không về” một thuở, tuy nhiên nó được thể hiện bằng giọng điệu khác. Nói đến bi nhưng không luỵ, cũng không còn cái khẩu khí kiểu “anh hùng sân khấu” “chí nhớn chưa về bàn tay không” nữa. Hình ảnh “người ra đi” trong thơ ca kháng chiến vừa quen vừa lạ. Ta vẫn tìm thấy những nét vốn có của “người ra đi” ở thời kỳ trước, đồng thời ta ngạc nhiên trước những chuyển biến mới. Từ tâm trạng buồn bã, day dứt của li khách trong Tống biệt hành của Thâm Tâm:
“Ta biết người buồn chiều hôm trước ...
... Ta biết người buồn sáng hôm nay”
đến sự ra đi trong thơ Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Dường như là sự tiếp nối mạch cảm xúc giữa hai thời đại. Chàng Kinh Kha ngày xưa ra đi không mảy may vướng bận. Người chinh phu mải miết thực hiện nợ công danh, thực hiện nghĩa vụ với đất nước. Li khách hăm hở, quyết chí lên đường dẫu trong lòng nặng trĩu một tình cảm chia ly; nỗi trăn trở dằn vặt, sự giằng xé nội tâm được “che đậy” bằng vẻ ngoài “dửng dưng” lạnh nhạt. Nếu người ra đi trong thơ Chính Hữu thời kỳ đầu còn như là hình ảnh “rớt lại” của người tráng sĩ năm xưa:
“Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương cất cao cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”
(Ngày về - Chính Hữu)
Thì đến người ra đi trong “Đất nước” đã khác. Dường như hình ảnh “người đi” cứ trút dần lớp áo chinh phu để bộc lộ con người thật của mình. Ta có thể thấy được sự chuyển biến của hình ảnh “người đi” ở từng thời kỳ. Mỗi sự đổi thay đó đều gắn liền với hoàn cảnh lịch sử dân tộc. Có lẽ chính vì thế mà nó đã góp phần tái hiện lại suy nghĩ chung của từng thời kỳ. Đọc được nét tâm trạng của người ra đi trong thơ ca kháng chiến, ta chợt băn khoăn biết đâu chàng Kinh Kha xưa cất bước ra đi lại có những vướng bận trong lòng. Sự phát triển kế thừa và tiếp nối của hình tượng “người đi” không chỉ góp phần tái hiện lịch sử mà còn giúp chúng ta có những cảm nhận riêng biệt về mỗi thời kỳ khác nhau. Cũng từ đó ta hiểu được sự trăn trở, lời mời gọi lên đường, thúc giục người đi thời kỳ kháng chiến chống Mỹ:
“Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô tàu đói những vầng trăng”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Từ hai câu thơ của Bác:
“Chinh nhân di tại chinh đồ thượng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn”
(Tảo giải)
Đến lời kêu gọi tràn đầy nhiệt tình cách mạng kia, hình ảnh “người ra đi” đã mang những nét thay đối rõ rệt.
Nhắc đến hình ảnh này, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ ngay đến bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Trong cái phông biến ảo trăm màu sắc của Thơ mới thì “Tống biệt hành” mang một sắc màu lạ. Tô Hoài đã từng nhận xét rất tinh rằng tuy cùng một trường phái thơ “hành”, chung một giọng điệu nhưng sắc điệu của mỗi nhà thơ có khác nhau. Và Thâm Tâm “sừng sững, cô đơn như cây đa, con đò một mình”. Bài thơ mang trong mình “chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” đúng như Hoài Thanh từng nói: “Tống biệt hành” - như cái tiêu đề của nó là một cuộc chia tay ngang trái và đầy uẩn khúc, nó vừa tiêu biểu cho thời đại ấy, vừa có tính cách muôn thuở. Người ra đi cất bước giữa sự giằng xé của bổn phận và khát vọng. Khát vọng giục anh ta lên đường còn bổn phận giữ anh ta ở nhà. Anh ta vẫn phải đi, điều đó không thể khác. Nhưng để có thể ra đi, anh đã phải tự làm rắn lòng mình lại, quyết dứt khoát giã từ:
“Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng”
Nhưng dù cô tình che giữ, nỗi buồn sâu nặng của người ra đi vẫn bị tri kỷ của anh giãi bày thật cảm động:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
Toàn bài thơ là sự chồng chất của các sắc thái tình cảm. Đó là sự đan xen giữa “mặc cảm bất hiếu và lỗi đạo”, là sự lựa chọn nghiệt ngã giữa “bổn phận và khát vọng”. Có thể nói rằng mặc cảm bất hiếu, lỗi đạo là đỉnh điểm của tình cảm biệt ly ở đây. Mặc cảm này là một vẻ đẹp đầy uẩn khúc của li khách. Dẫu sao người ra đi đã có một tri kỷ nhưng bài thơ mang “chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” này vẫn rất cần những tri âm! Nói đến hình ảnh “người ra đi” trong “Tống biệt hành” ta lại nhớ đến những câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
“Sáng chớm lạnh trong lòng
Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Có thể nói đây là một trong những khổ thơ tả mùa thu Hà Nội hay nhất. Tác giả đã chớp lấy được cái hồn của mùa thu, cho nên chỉ bằng vài nét phác hoạ, mùa thu Hà Nội đã hằn sâu vào kí ức người đọc. Đặc biệt trong khung cảnh lãng mạn trữ tình ấy có hình ảnh “người ra đi”. Li khách của Thâm Tâm dẫu sao đã có người tri kỷ nói giùm tiếng lòng còn “người đi” ở đây cô đơn quá. Chẳng biết tâm trạng đã nhuộm vào cảnh vật hay chính thu Hà Nội đã nói lên tâm trạng của người ra đi. Có lẽ tất cả đều ở lòng người thôi. Cảnh thu từ bao lâu nay đã từng được nhận diện bởi biết bao thi nhân vẫn vốn là mùa thu với sắc lá vàng, cái nắng mật ong ấy thôi. Chính tâm trạng đã phủ lên toàn bộ cảnh vật và làm nên một bức tranh rất đẹp, rất thơ. Người ra đi có cái cương quyết của ý chí nhưng cũng có cái vấn vương, trăn trở, day dứt của tâm hồn. Bề ngoài họ không “bước đi một bước giây giây lại dừng” nhưng trong thâm tâm, từng chiếc lá rơi, từng chút nắng đậu đều gieo vào lòng họ một nỗi bâng khuâng, dìu dặt. Khác với người ra đi ở “Tổng biệt hành” và trong thơ Nguyễn Đình Thi, “Tây Tiến” của Quang Dũng không nhấn mạnh tâm trạng. Toàn bài “Tây Tiến” là một “khúc độc hành” trầm hùng cho những ngươi ra đi với ý chí của “người đi không hẹn ước”.
Những “người ra đi” trong “Tây Tiến” không mảy may về sự ra đi của mình. Hơn thế nữa, họ biết rõ chặng đường đầy gian lao, hy sinh mất mát mà họ đã và đang đi qua. Nhưng họ vẫn cháy rực ý chí “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Có người cho rằng “Tây Tiến” có những biểu hiện tiêu cực, nào là buồn rơi, mộng rớt; nào là “anh hùng tiểu tư sản” ... Nhưng thực sự khẩu khí của những người ra đi trong “Tây Tiến” rất đáng trân trọng. Bởi nó là biểu hiện quyết tâm của những con người sẵn sàng đổ máu hy sinh vì những lẽ sống lớn lao ... Mỗi thi phẩm đều có những vẻ đẹp riêng tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh mà trong đó hình ảnh “người đi” được chiếu rọi trên nền phong của lịch sử dân tộc. Mặc dù không phải là một hình tượng tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam nhưng ta có thể thấy rõ sự hình thành và phát triển của hình ảnh “người ra đi” qua các thời kỳ khác nhau.
Có người nhớ mãi một tác phẩm hay, có người chỉ thích một câu hoặc một đoạn. Chắc hẳn hình ảnh “người ra đi” sẽ neo giữ trong rất nhiều tâm trí người đọc. Bởi lẽ nó bắt nguồn từ rất xa xưa và lớn lên theo thời đại, nó góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho thơ ca Việt Nam./.