Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Dàn bài và bài văn mẫu: Đóng vai Trương Sinh kể lại truyện Chuyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Chủ nhật - 29/11/2020 07:41
Hướng dẫn lập dàn bài chi tiết và làm bài văn mẫu, đề bài: Đóng vai Trương Sinh kể lại truyện Chuyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

I. DÀN Ý.

1. Mở bài:
- Lời tự giới thiệu của Trương Sinh. (Quê quán, gia cảnh...)
- Lời giới thiệu của Trương Sinh về người vợ của mình. (Vũ Thị Thiết xinh đẹp, nết na...)

2. Thân bài:
* Diễn biến câu chuyện:
- Vợ chồng trẻ đang sống hạnh phúc thì chiến tranh xảy ra, Trương Sinh bị sung vào lính.
- Vũ Thị Thiết sinh con trai. Việc nhà chồng một tay nàng đảm đang lo liệu.
- Mẹ Trương Sinh thương con nơi chiến trường, lo lắng đến phát bệnh rồi qua đời. Con dâu lo chôn cất cho bà chu đáo.
- Hết giặc, Trương Sinh về nhà, đau đớn vì mẹ đã mất.
- Câu nói ngây thơ của đứa con gây ra sự hiểu lầm ghê gớm. Cơn ghen mù quáng của Trương Sinh đã đẩy người vợ hiền vào cái chết oan ức.
- Vũ Nương sau khi gieo mình xuống sông, được các tiên nữ đưa về Thuỷ cung sống với Linh Phi.
- Linh Phi cứu sống Phan Lang, ân nhân cũ. Vũ Nương nhờ Phan Lang nhắn với Trương Sinh ra bến sông gặp nàng.
- Trương Sinh lập đàn giải oan và nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên kiệu ở giữa dòng. Vũ Nương không thể trở về nhân gian được nữa.

3. Kết bài:
- Trương Sinh ân hận, tự trách thói ghen tuông nông nổi của mình khiến cho gia đình tan vỡ.
- Mong muốn mọi người hãy nhìn vào bi kịch của mình để rút ra bài học.

II. Bài văn mẫu:

Bài 1: Đóng vai Trương Sinh kể lại truyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

Đời người không ai là không phạm sai lầm cả, quan trọng hơn là biết sửa sai. Thế nhưng với tôi khi mắc sai lầm đã không cách nào cứu vớt được, chỉ còn lại sự đau buồn, ân hận, xót thương về những điều đã xảy ra vài năm trước đây...Tôi - Trương Sinh, sinh và lớn lên trên mảnh đất Nam Xương. Cha tôi chẳng may mất sớm, nhà chỉ còn lại một mình mẹ và tôi. Hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống. Mẹ luôn muốn tôi lấy vợ sớm để bà có cháu bồng bế, thêm người cho vui cửa vui nhà. Đến tuổi cập kê mẹ đã tìm người mai mối rồi cưới cho tôi một cô gái vô cùng xinh đẹp, nổi tiếng đảm đang ở trong vùng tên là Vũ Thị Thiết.

Tôi mừng lắm bởi gia cảnh nhà mình cũng bình thường, mẹ góa con côi, tôi được cái ngoan ngoãn chịu khó làm ăn nhưng cũng không phải con quan chức, địa chủ gì vậy mà nàng lại chịu lấy tôi. Tôi rất yêu vợ, cũng vì yêu nhiều nên đôi khi tôi hay ghen tuông bóng gió. Đó là một thói xấu nhưng vì quá yêu nàng nên tôi không kiềm chế được cảm xúc nóng nảy mối khi có người đàn ông nào muốn tiếp cận hay đến gần Vũ nương.

Gia đình nhỏ bé của tôi nay lại thêm được Vũ nương đảm đang chăm sóc, vun vén mà tôi có cảm giác thật hạnh phúc, yên bình. Chắc đó là khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi. Mẹ tôi đã già yếu, bà thương con dâu như chính con ruột của mình, nàng cũng hết mực hiếu thảo với bà. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.

Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:

- Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.

Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Còn Vũ nương, nàng rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:

- Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.

Nhìn hai người phụ nữ quan trọng nhất đời mình như thế, tôi xúc động ngôn nguôi. Trong lòng nảy sinh cảm giác thật ấm áp và an tâm khi nhà cửa, gia thất đã có đôi bàn tay khéo léo của thê tử chăm sóc. Ngày đi lính , lòng nặng trĩu quay lưng về phía ngôi nhà của chúng tôi, tôi bước đi thật nhanh, không ngoảnh đầu lại.

Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Vũ nương chẳng ngại khó nhọc, nàng luôn luôn kề cận chăm sóc mẹ tôi cho đến khi bà từ giã cõi trần. Từ đó căn nhà nhỏ vắng đi một bóng người, chỉ còn hai mẹ con nàng sống nương tựa vào nhau. Đản không biết mặt cha nó là ai, bởi vì tôi đã đi lính ròng rã mấy năm trời xa cách.

Ngày giặc bị đánh tan là lúc tôi khăn gói trở về quê nhà. Vừa tới cổng nhà nghe người hàng xóm thông báo tin dữ mẹ tôi đã qua đời hơn nửa năm trước tôi đau khổ tột độ, vội vàng vứt chiếc túi cói đựng đồ dùng cá nhân xuống nhà, rồi vội vàng ra thăm mộ mẹ. Nhưng tôi chưa biết mẹ được chôn cất chỗ nào nên dắt thằng bé con trai tôi đi theo, bởi lúc đó vợ tôi đang bận đi chợ mua đồ ăn về đãi tôi thắng giặc trở về. Trong lúc tôi cõng con trai đi thăm mộ mẹ, trên đường đi nó cứ khóc suốt không chịu nhận tôi là ba nó. Nó còn đấm thùm thụp vào lưng tôi bảo "Thả tôi ra ông không phải là ba tôi. Ba tôi đêm nào cũng tới". Người xưa có câu "Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ" nên nghe con trai nói thế tôi bực lắm. Tôi tin rằng vợ tôi đã sinh hư trong lúc vắng chồng quạnh hiu, nên mềm yếu với tên nào đó rồi. Tôi vội vàng thắp hương, lạy mẹ ba lạy rồi tức tốc về nhà gặp vợ hỏi rõ đầu đuôi. Vừa đi lòng tôi vừa nóng như lửa đốt, thực sự rất tức giận.
 
Khi tôi bước vào nhà, vợ tôi đang loay hoay dưới bếp với rất nhiều món ngon, nàng bước ra trên mặt còn dính một vệt nhọ nồi, trông nàng lúc ấy rất xinh vô cùng duyên dáng và đáng yêu. Nhưng máu ghen trong người tôi đang lên cao ngút trời tôi không thể nào mà nguôi giận ngay được. Tôi quắc mắt hỏi vợ : Con trai nói rằng tối nào ba nó cũng đến thăm, đấy là thằng nào? Thằng nào hả?. Cơn giận bùng lên như ngọn lửa, thiêu đốt hoàn toàn lí trí của tôi. Tôi nóng nảy mắng mỏ ,quát tháo Vũ nương, mặc cho nàng có khóc lóc như thế nào tôi cũng không màng đến. Khi cơn giận lên đến đỉnh điểm, tôi đã thẳng thừng buông lời lạnh lùng đuổi nàng đi ra khỏi nhà. Mấy người hàng xóm đến can ngăn nhưng tôi còn quát cả họ, đuổi họ về. Vũ nương vẫn khóc, từng giọt nước mắt thấm ướt vạt áo nàng. Lòng tôi chợt thấy có cái gì đó nhói lên nhưng rồi ngọn lửa tức giận đã lấn át hết mọi thứ. Tôi mù quáng đuổi nàng đi, đóng cánh cổng nhà lại.

Vũ nương bị đuổi ra khỏi nhà, tôi cứ nghĩ nàng ấy sẽ đi về nhà mẹ đẻ hoặc đến nhà bà con nào đó xin tá túc. Nhưng không vợ tôi tắm rửa sạch sẽ, rồi thay xiêm y ra thành Hoàng Gia ngửa mặt than trời xin ông trời nếu như ông có mắt thì hãy chứng giám cho sự trinh tiết đức hạnh của nàng. Rồi nàng tôi gieo mình xuống sông tự tử. Nàng mất rồi. Tôi giật mình. Thật sự là nàng đã ra đi rồi ... Tại sao lại thế, lòng tôi đau đớn nhìn xuống dòng nước lặng. Tôi không nghĩ nàng lại làm quyết liệt tới như thế. Tôi đâm ra oán giận mình đã quá mê muội nếu nàng không trong sạch thì sao lại phản ứng mạnh tới như thế. Tính ghen tuông đã làm tôi gián tiếp dẫn đến cái chết của Vũ nương. Người con gái đáng thương ấy, tôi thương nàng nhưng lại làm nàng tổn thương đến mất cả tính mạng chỉ vì nàng muốn minh chứng cho lời giải thích của nàng với tôi là sự thật.

Đêm đến, trong căn nhà lạnh lẽo. Tôi nằm mãi không ngủ được con trai thì kêu khóc đòi mẹ, tôi dỗ mãi nó mới nằm im được một lúc. Tôi cũng không ngủ được nên dậy thắp ngọn đèn lên cho sáng sủa. Khi nhìn thấy bóng của tôi trên vách tường thằng bé Đản con trai tôi mừng rỡ khoe tôi "cha con đó". Câu nói của nó làm tôi giật mình thức tỉnh, hóa ra tôi đã nghi oan cho vợ đẩy nàng tới cái chết thê lương. Hình ảnh kí ức tái hiện lại vô cùng đau thương. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, tôi cư xử quá lạnh lùng và tàn nhẫn với Vũ nương. Nàng chỉ mong tôi tin nàng. Thế nhưng tôi đã không làm được điều đó. Giờ tôi có ân hận , đau buồn đến đâu cũng chẳng thể làm nàng quay về với gia đình này nữa. Con tôi đã mất mẹ tại vì người cha vô tâm của nó...

Gần nhà tôi có một người làm nghề đánh cá tên Phan Lang một lần ông áy nằm mơ thấy một cô gái xin tha mạng, khi tỉnh dậy nhặt được một con rùa rất to nên ông ấy nhớ tới giấc mơ bèn thả con rùa về biển. Một hôm người này đi biển bị lật thuyền được một cô gái cứu giúp, hỏi ra mới biết cô gái này chính là vợ tôi. Vợ tôi vì oan khuất mà tìm tới cái chết làm lay động thủy cung nên được cứu vớt. Nàng có nhờ Phan Lang nhắn với tôi rằng: Chàng hãy lập đàn giải oan cho thiếp, thiếp sẽ hiện về. Ban đầu tôi bán tính bán nghi không tin hết lời người đàn ông này nói nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng tôi đã tin. Đây thật sự là vật dụng của Vũ nương.

Tôi bèn theo lời Phan lập một dàn giải oan trên bến sông. Vũ nương hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào:

- Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa.

Trong phút chốt cảnh tượng tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con phải li biệt mãi mãi. Sai lầm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa. Tôi mong mọi người hãy nhìn vào tôi mà rút ra bài học cho chính bản thân mình, rằng đã kết nghĩa trăm năm, muối mặn tình nồng thì vợ chồng hãy thương yêu tin tưởng lẫn nhau có như vậy hạnh phúc mới bền vững mãi mãi được.
 

Bài 2: Đóng vai Trương Sinh kể lại truyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

Chuyện ma quỷ hiện linh lưu truyền trong nhân gian xưa nay không hiếm, tôi chưa hẳn đã tin. Nhưng cầm chiếc trâm cài trong tay, tôi mới hay Phan Lang quả thật đã không nói dối. Chiếc trâm hoa này chính tôi đã mua tặng cho Vũ Nương khi cưới nàng về là vợ. Nghĩ lại cảnh đời trớ trêu tôi càng ân hận và thấy thương Vũ Nương vô cùng.

Tôi là Trương Sinh, vốn sinh ra là con nhà hào phú. Cha tôi mất sớm, chỉ còn có mẹ già nhưng gia cảnh vẫn hết sức sung túc. Thực hiện niềm mong mỏi của mẹ, có người nối dõi tông đường về sau, tôi ngày đêm ưu tư, tìm kiếm người con gái thảo hiền để mẹ có người bầu bạn sớm hôm cho đỡ hờn tủi.

Nghe ở huyện Nam Xương có một người con gái tên là Vũ Thị Thiết tôi đã đem lòng yêu mến. Nàng tuy con nhà nghèo khó nhưng là người đã thùy mị nết na. Lại thêm nàng là người có tư dung tốt đẹp. Nên tôi xin mẹ trăm lạng bạc xin cưới nàng về làm vợ.

Tôi từ lâu do được cha mẹ nuông chiều, lại sống trong phú quý nên tính tình có phần kiêu hãnh, lại thêm hay đa nghi người khác. Hiểu được tính tôi, nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì giặc Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương. Triều đình bắt nhiều lính tráng đầu quân. Tôi tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lo sợ tôi gặp hiểm nguy nơi xa trường, không người thừa tự tông phả, mẹ tôi lo láng vô cùng. Nhiều lần lo lót tiền bạc nhưng cũng không thể miễn được.

Ngày ra đi đất trời u ám. Xóm làng cũng ngậm ngùi đến tiễn đưa đứng kín cả sân nhà. Mẹ tôi ngồi trên phản lớn, nước mắt lưng tròng dặn dò tôi hết sức chu đáo:

– Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp. Nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng. Biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh. Đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Tôi cũng chẳng tham gì công trạng. Từ lâu chỉ muốn sống yên thân, bó buộc nơi thôn dã. Công danh sự nghiệp của người làm trai tuy có quan trọng nhưng phụng dưỡng mẹ già chu toàn vẹn tất. Trọn đời chỉ mong thực hiện đạo hiếu với mẹ. Nắm lấy tay mẹ, tôi quỳ xuống lạy tạ vâng lời, hứa sẽ trở về bình an. Mẹ tôi cũng yên tâm phần nào.

Vũ Nương đứng cạnh cũng rót ly rượu từ biệt thiết tha:

– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công. Lời tâu công lớn phá giặc đã chầy. Kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét. Ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.

Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, chén rượu tống tiễn tay đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu. Ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Trống hội quân vang lên giục giã như cào xé trong lòng. Dù hết sức điềm tĩnh nhưng tôi cũng không thể cầm được dòng nước mát đang lăn chảy. Ra đi chuyến này muôn trùng cách trở, chưa biết ngày về mà nàng lại đang có mang con nhỏ. Lại thêm mẹ già tuổi đã xế chiều, sức không còn khỏe nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao.

Tôi suy nghĩ rất nhiều nhưng quân tình gấp gáp đành gác lại riêng tư lên đường cho kịp ngày giờ. Thoáng một cái, gót ngựa đã đến nơi xa. Trong lại chỉ còn trong thấy bóng quê nhà trong mịt mờ khói bụi. Từ đậy, chiến trận ác liệt nên tin tức quê nhà cũng bặt vô âm tính.

Hai năm đằng đẵng trôi qua, cuối cùng giặc dữ cũng quy hàng. Cõi biên thùy lại yên lặng sóng gió. Tôi trở về sau bao năm tháng ly biệt. Hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Nhìn đứa con thơ ngơ ngác lần đầu gặp cha toi vô cùng xúc động. Lại thêm mẹ già cùng kiệt đợi con về mà không thấy đã sớm lìa đời, tôi vô cùng đau đớn. Nhiều lần tự trách mình bất hiếu đã không thể làm tròn bổn phận của người con. Mẹ tôi trước lúc lìa khỏi trần gian đã không được nhìn thấy đứa con trai duy nhất. Tôi cũng không được thắp nén hương tiễn đưa vong linh người về suối vàng.

Sáng hôm sau, tôi bế con trai ra viếng mộ mẹ, trong lòng trĩu nặng ưu tư. Lúc thắp hương tưởng niệm, con trai tôi cứ quấy khóc không chịu ở lại, cứ nằng nặc đòi về. Tôi nhẹ nhàng dỗ dành:

– Con nín đi, đừng khóc! Cha về bà đã mất, lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con đừng khóc thêm nữa!

Nào ngờ, con tôi buộc miệng ngây thơ khiến tôi không khỏi sửng sốt:

– Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.

Tính tôi hay hoài nghi, lại rất hay ghen, từ trước vốn đã không nặng lòng tin tưởng vợ tôi, nên khi nghe câu nói con trẻ khiến lòng ghen nỗi dậy nhấm chìm cả lí trí:

– Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Vin vào lời con nói, tôi đinh ninh cho rằng Vũ Nương ở nhà đã không biết giữ gìn trinh tiết, dan díu với gian tình, bôi nhọ gia phong, làm nhục gia thế. Trở về nhà, tôi nặng lời mắng nhiếc thậm tệ, đánh đập cho bỏ tức. Nàng hết lời minh giải, gợi nhắc tình xưa, than lời ai oán. Nàng thề đã giữ trọn tiết hạnh khả phong chẳng khi nào sai trái. Hỏi có làm sao, tôi vẫn không nói. Hàng xóm cảm thương đến can ngan, minh chứng tôi cũng không nghe. Giận qua mất khôn, tôi đã đuổi nàng đi, từ nay đoạn tuyệt, không thèm nhìn nhận nữa.

Quá tuyệt vọng, nàng thốt lời đâu đớn:

– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Tôi chỉ nghĩ nàng sẽ đi đâu đó dăm ba ngày, đợi tôi hồi tỉnh sẽ trở về biện minh, oan giải. Nào ngờ, nàng trong lúc bế tắc, lại bị chính chồng mình phủ nhận đã trầm mình xuống sông xanh tận tuyệt, kết liễu cuộc đời trong phẫn uất.

Tôi tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương. Tôi vội tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả.

Khi Vũ Nương mất ròi, tôi đêm đêm ôm ấp con trẻ thay mẹ. Đứa con không còn mẹ, buồn tủi mà khóc suốt đêm thâu. Tôi phải bế lên dỗ dành. Bất ngờ, con tôi chỉ lên cái bóng của tôi trên tường mà thốt lên rằng:

– Cha Đản lại đến rồi!

Lúc này tôi mới hoảng hồn nhận ra. Thì ra khi tôi đi vắng, Vũ Nương thường chỉ lên cái bóng của mình trên tường nói rằng là cha đó để chơi đùa cùng con. Nàng muốn làm con bớt nỗi trống vắng bóng hình người cha. Tôi vô cùng ân hận, bế con đi khắp làng trên xóm dưới tỏ bày sự tình và xin mọi người tha thứ. Ai cũng ngùi ngùi cảm động. Có người còn khóc thương thảm thiết.

Họ kể tôi nghe, những ngày tôi ở ngoài mặt trận, Vũ Nương ở nhà tuy hết sức đảm đang, khổ nhọc chăm con nhỏ. nàng còn tận tâm phụng dưỡng mẹ già chu đáo nhưng chưa lúc nào than vãn điều gì. Nàng một mình cam chịu, lầm lũi sớm hôm, thay tôi lo chu toàn mọi việc. Mẹ tôi vô cùng cảm động, dù đã gắn gượng đợi tôi về nhưng sức cùng lục kiệt, không thể đợi chờ được thêm. Trước lúc ra đi còn gửi lời dặn dò tha thiết, ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Bà còn cầu mong điều may mắn, an lành đến với nàng.

Những đêm con khóc quấy dỗ mãi không nín, nàng thường chỉ lên cái bóng của mình ở trên tường, nói rằng là cha đó. Con tôi tưởng thật, không khóc nữa. Nàng muốn con luôn có cha, an tâm trong giấc ngủ. Tấm lòng của nàng thật ấm áp biết bao.

Trời ơi! Chỉ vì nghe lời nói vu vơ của con trẻ mà tôi đã hại chết người vợ hiền đức, thủy chung. Chỉ vì sự ngu ngốc, mê muội của tôi mà tôi đã phụ lòng nàng, phủ nhận công ơn của nàng. Mẹ ơi! Con là đứa con bất hiếu, đã phụ lòng mong mỏi của mẹ. Ơi Vũ Nương! Kiếp này nàng đến với ta bằng tấm lòng trinh bạch. Chỉ vì lòng ghen quá độ mà ta đã nghi oan cho nàng, ích kỉ đến đê tiện, phụ tình khiến nàng phải chết oan uổng.

Đêm khuya vắng, ly rượu nhạt nhòa, nước mắt lưng tròng. Nghĩ đến chuyện xưa mà lòng nặng trĩu như Thái Sơn, ai oán hơn trăm vạn nỗi buồn thảm. Oan nghiệp ấy dù vô tình hay cố ý cũng không thể nào tha thứ được. Tôi không mong muốn điều gì hơn là Vũ Nương sẽ rời khỏi cung nước, trở về cùng chồng, cùng con nhỏ để con thơ có mẹ, mà tôi còn có cơ hội để đáp đền công đức của nàng.

Tôi đã lập đàn giải oan cho vợ đúng như lời Phan Lang đã dặn dò. Lại còn bày biện lễ nghi sẵn sàng đón rước Vũ Nương trở về. Hôm ấy, người trong làng cũng cùng ra xem hết sức đông đảo. Bỗng nhiên trời đất tối sầm lại, sương khói không biết từ đâu tràn phủ khắp mặt sông nước. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng. Theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc thuyền nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông. Đoàn thuyền lúc ẩn lúc hiện trong sương khói. Tôi vô cùng mùng rỡ, liền với gọi, van xin nàng tha thứ:

– Ta đã biết mình sai rồi, hãy tha thứ cho ta. Nàng hãy vì tình xưa mà trở về với con đi.

Vũ Nương vẫn ở giữa dòng mà nói với vào, giọng vang vọng như lời gió thổi mây bay:

– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.

Tôi có gọi mãi nhưng nàng không nghe nữa. Đoàn thuyền dần ra xa rồi biến mất. Mặt sông hiện ra trơ trọi. Tất cả đã không còn gì nữa. Người trong làng cũng bỏ về hết, mặc tôi một mình than khóc không nguôi. Tôi không trách nàng, chỉ trách mình phụ bạc, ăn ở bất nghĩa, bất tín, vô tình vô cảm. Nàng sẽ tìm thấy sự bình yên nơi cung nước thẳm, không bao giờ trở về trần gian nữa. Tôi mãi mãi mất đi một người vợ thủy chung.  Đây là hậu quả xứng đáng dành cho kẻ bạc tình vô tâm như tôi.
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây