Tác phẩm văn học giống như một con quay hồi chuyển mà mỗi mặt, mỗi bề của nó đều tác động vào ta những giá trị tinh thần cao đẹp. Một câu thơ hay làm cho ta thấy cuộc đời thêm ý nghĩa, một nội dung hay khiến ta xuýt xoa, một đoạn văn tả cảnh ấn tượng khiến tâm hồn ta bay bổng lâng lâng, có khi chỉ một câu nói của nhân vật cũng làm ta day dứt mãi khôn nguôi. Chẳng hiểu sao mỗi lần gấp trang sách lại tôi cứ nhớ mãi cái bộ mặt của bà cô Thị Nở nói với cháu mình “Ðàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ” lại càng không thể quên khuôn mặt già nua khắc khổ, đầy lo toan, đầy nước mắt nhưng lại hồn hậu, dịu dàng trong tình yêu thương đồng loại của bà cụ Tứ. “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
Nam Cao viết Chí Phèo năm 1941 và nhanh chóng trở thành đỉnh cao của văn học hiện thực phê phán. Chí Phèo là nhân vật trung tâm của tác phẩm với một cuộc đời cùng hơn cả dân cùng. Bị cả xã hội cự tuyệt, quăng quật cho ra rìa, sống một cuộc sống vật vờ không đáng sống cho đến một ngày kia có một người đàn bà đã bước vào cuộc đời của hắn. Hắn vẫn quen chiếm đoạt để có miếng ăn và người đàn bà kia tất nhiên cũng là do hắn chiếm đoạt mà có được. Ấy thế nhưng, “chúng lại rất có duyên với nhau như trời sinh một cặp” và chắc chắn chúng sẽ lấy nhau nếu như không có một ngày kia, cái “con khọm già” (bà cô Thị Nở) không buông lời trách mắng cháu bà: “Ðàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Ô hay, cái thằng không cha thì có sao đâu nhỉ? Mà sao hắn lại phải làm cái nghề rạch mặt ăn vạ cơ chứ? Câu chửi ngoa ngoắt ấy khiến ta lật ngược chiếc đồng hồ cát để quay về quá khứ tìm hiểu về con người ấy.
Và đúng Chí Phèo là thằng không cha, không mẹ. Cuộc đời hắn tưởng như đã chết bên cái lò gạch bỏ hoang ấy rồi nếu như không gặp được những con người tốt bụng làng Vũ Đại đem về cưu mang, nuôi dưỡng. Cái tuổi thơ bất hạnh lang thang đi ở cho nhà người ấy càng làm cho bản tính mồ côi càng thêm hiền lành như đất. Để rồi ít lâu sau đó người ta bỗng đâm hoảng trước thái độ hung hãn mất hết nhân tính của Chí khi mãn hạn tù về. Chí đội lốt quỷ dữ, tác oai tác quái cho dân làng “làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện”. Hắn chỉ biết rượu và máu – hai thứ không thể thiếu đối với một con quỷ. Dân làng có thể khóc. Quỷ chỉ có thể cười trên nỗi đau của người khác. Và cứ thế hắn say – say rượu và say tội ác. Nam Cao đã để hắn vùng vẫy khá lâu trong sự tuyệt vọng, trong sự cô đơn của quỷ khi mà cả làng Vũ Đại ai cũng “tránh mặt mỗi lần hắn qua”. Cô đơn đến nỗi mà ngay cả tiếng chửi của mình mà cũng chẳng có tiếng người đáp lại, chỉ tiếng chó cắn là có thật. Và Nam Cao lạnh lùng đến thế là cùng. Nhưng có ai đó đã nói rằng “Văn Nam Cao cũng như văn Lỗ Tấn, cái bình thủy ấy, bên ngoài thì lạnh, bên trong thì nóng”.
Người đọc cũng chẳng phải chờ lâu, bởi Nam Cao vốn là một nhà nhân đạo chủ nghĩa, “thiên sứ” cứu rỗi linh hồn Chí mà ông phái đến chính là Thị Nở. Phải nói thị là thiên thần mới đúng, bởi với một kẻ như Chí Phèo khi đã cạn tình yêu thương, thì chỉ cần một chút yêu thương chạm khẽ cũng đủ để hắn thức tỉnh. Tiếc rằng, cái xã hội lạnh lùng ấy đã rũ bỏ hắn, cái xã hội đã đẩy hắn đến hố thẳm đường cùng ấy đã không mảy may bố thí cho hắn dù chỉ là một chút tình yêu thương. Thì Thị Nở chính là thiên thần của hắn.
Cuộc tình ngắn ngủi của một kẻ cô đơn (Thị Nở) và một con Quỷ dữ đã xích lại gần nhau tình người. Hai con người khốn khổ bị ném về hai phía tận cùng khổ đau, oái ăm thay lại chính là hai kẻ thắp sáng lên niềm hi vọng trong nhau. Chí đã hồi sinh sau cơn say dài vô tận, chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình có mặt trên đời thì bỗng một ban mai thức dậy cảm thấy “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lại nghe được những thanh âm vang động của cuộc sống thường nhật, từng tiếng, từng tiếng một gõ nhịp vào tâm hồn hắn. Tiếng “chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ về”. Những âm thanh ấy thật bình dị, thật đời thường biết bao. Vậy mà hôm nay hắn mới nghe được. Nó tựa hồ như dòng suối mát chảy vào thớ đất khô hạn của tâm hồn cằn cỗi. Như vùng đất sỏi đá, cằn khô bất chợt gặp mưa rào. Bấy lâu nay, vùng đất tâm hồn hắn chỉ uống vào bằng thứ “nước” máu và nước mắt của người dân lương thiện thì hôm nay thanh âm cuộc sống chính là thứ nước thánh diệu kỳ gội rửa tội lỗi và thanh lọc tâm hồn cho hắn. Đánh thức trong hắn vùng ký ức đã chết. Hồi sinh cả vùng tâm hồn trong hiện tại và thức dậy cả một viễn cảnh đói rét, ốm đau và cô độc phía trước.
Còn nhớ trong tiểu thuyết “Nhà thờ đức bà Pari” của nhà văn V.HuyGo, có đoạn Esméralda bị Quasimodo bắt cóc nhưng may mắn nàng được giải cứu. Còn Quasimodo thì bị nhốt vào lồng bêu trước công chúng. Vốn nhân từ, Esméralda bỏ qua vụ bắt cóc và đã đem nước cho Quasimodo uống trong lúc hắn bị xử phạt trên đài bêu vì tội bắt cóc và gây rối loạn ban đêm. Tâm hồn hoang dã của Quasimodo từ lâu không quen giao tiếp với thế giới con người, chỉ biết có cha nuôi là phó Giám mục Frollo, người đã đem hắn về nuôi khi hắn còn là một quái thai dị dạng bị bỏ trước cửa nhà thờ. Vẻ đẹp và tấm lòng của Esméralda đã làm thức tỉnh trái tim hoen gỉ của hắn. Quasimodo bắt đầu yêu, một tình yêu bất diệt không cần đền đáp. Thì nay trong Chí Phèo, bát cháo hành của Thị cũng đã làm Chí được đánh thức, đánh thức từ khứu giác, đến vị giác, đến cả xúc giác và cuối cùng là thức tỉnh cả tâm hồn, nhân phẩm. Bát cháo hành của thị như liều thuốc giải độc đã tẩy ố đi men rượu, góp phần tỉnh rượu và tỉnh ngộ. Giờ đây hắn là con người, con người với ý nghĩa đẹp nhất.
Nhà văn đã để cho Thị Nở thốt lên “Ôi chao sao mà hắn hiền. Ai bảo đó là cái thằng Chí Phèo chỉ biết rạch ăn vạ”. Thị đúng là cơn gió mát lành thổi vào cuộc đời của Chí, là ngọn lửa ấm sưởi ấm quãng đời đã nguội lạnh của hắn. Gió thổi đi tro tàn, bụi bặm của một cuộc đời đầy những khổ đau, lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ quỷ dữ, hong khô bao ngày cô lẻ với tấm thân mòn úa hoang tàn. Thị đã khơi dậy trong Chí khao khát được làm người, khao khát được trở về cái xã hội bằng phẳng, được làm hòa với mọi người, khao khát tình đồng loại. Tại sao bà cô Thị Nở lại không?
Ở đây Nam Cao muốn lên án cái định kiến hà khắc của xã hội. Định kiến cổ hủ, tàn khốc, là sợi dây thòng lọng vô hình giết chết bao người. Trong tác phẩm “Thời thơ ấu” của nhà văn Nguyên Hồng, có đoạn chú bé Hồng vì thương mẹ mà chú bé căm ghét những hủ tục phong kiến đã đọa đày mẹ : “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới thôi”. Như vậy, cổ tục, định kiến là những thứ tồn tại ngàn đời trong xã hội, nó giống như ung nhọt khó cắt bỏ. Và nó chính là cánh cửa ngăn cách con đường trở lại làm người của Chí. Chí lại tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không đủ sức làm lu mờ lý trí của con người thì nó sẽ quay ngược trở lại làm thức tỉnh lý trí của con người.
Chí Phèo bây giờ là thế. Càng uống hắn càng tỉnh. Hay nói đúng hơn, rượu làm hắn say, hơi cháo hành làm hắn tỉnh bởi hắn thấy “thoang thoảng hơi cháo hành”. Rồi hắn bưng mặt khóc. Quỷ có biết khóc bao giờ. Vậy thì nước mắt là dấu hiệu của con người. Hắn là người thật rồi. Định kiến tàn nhẫn của bà cô cũng là định kiến hà khắc của xã hội cũ. Lời nói của Thị Nở như cứa vào tim gan của hắn một vết đau. Nhưng vết đau đủ nhắc cho hắn một sự trở về - sự trở về của thiên lương, của nhân phẩm. Hắn chợt nhận ra tất cả: nỗi đau và thân phận; bất hạnh và trắng tay. Chợt nhận ra nỗi khổ của đời mình. Một con người sống giữa loài người nhưng không được công nhận là con người. Vậy nên tất cả lời bà cô mà Thị Nở trút lên hắn trở thành nỗi nhục nhã và cũng từ đó hắn chợt nhận ra thân phận. Sự tỉnh rượu đánh thức cả sự tỉnh ngộ để nhận ra cả cuộc đời dài dằng dặc trước kia đã bán mình cho quỷ dữ. Và hắn đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống lương thiện, trên một vũng máu tươi mà sự cảm thông chỉ là nước mắt của bạn đọc nhỏ xuống hai dòng lệ vì một kiếp người phù sinh giữa cõi nhân gian. Tuy nhiên, cần hiểu rằng lời nói của bà cô không phải là tất cả để dẫn đến cái kết cục bi thảm của Chí Phèo. Lời nói ấy chỉ là công đoạn cuối cho một kết thúc mà cái kết dường như đã được báo trước. Vậy nên, lời nói ấy vừa vô tình vừa không vô tình, vừa đáng trách lại vừa không đáng trách.
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, nhà văn vốn quen với thuần hậu phong thủy. Đề tài nông thôn thật quen thuộc trong những trang viết của ông. Nhưng đề tài năm đói và những con người nhân hậu bao dung với nhau cùng hướng đến tương lai là mới. Dễ gì hai mẹ con nhà Tràng ngấp nghé bên bờ vực của cái chết lại có thể nhận thêm một miệng ăn vào lúc này, lại sẵn lòng cưu mang, lại sẵn lòng đi đến xây dựng hạnh phúc. Đám cưới trong đám ma. Liệu có thật không. Nhưng có lẽ việc một người mẹ âm thầm cố giấu một dòng nước mắt, cố nói với các con “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” là một điều rất thật, có thật. Câu nói ấy làm chúng ta nhận ra đằng sau đó là cả một tấn bi hài, một tình huống truyện dở khóc dở cười của một anh phu xe tên Tràng và một cô ả lang thang. Một lần đẩy xe, một lần được mời ăn (chính xác hơn là đòi mới được ăn) của người đàn bà đã xe duyên cho một mối tình mà cái đói chính là nguyên nhân dẫn đến tất cả. Tràng thì cần hạnh phúc. Người đàn bà thì cần miếng ăn. Thành ra, hai cành củi khô ấy đã trôi dạt vào nhau, mắc cạn vào cuộc đời nhau. Rồi tất cả đưa nhau đến chỗ khó xử đến tột cùng. Xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ - mẹ Tràng ngạc nhiên, ngay cả Tràng là người trong cuộc cũng càng ngạc nhiên hơn nữa. Tràng ngạc nhiên vì hắn chỉ “tầm phơ tầm phào có đôi ba bận thế mà thành vợ thành chồng”. Xóm ngụ cư ngạc nhiên vì “giời đất này còn rước cái của nợ ấy về”. Bà cụ Tứ ngạc nhiên vì nhiều lẽ: con bà xấu, ế vợ, nhà lại nghèo… nó có vợ quả là điều không tưởng vào lúc này. Vậy nên, bà “đứng sững lại”, “phấp phỏng bước theo con vào trong nhà”, “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn”…
Bấy nhiêu ngôn ngữ cũng đủ để diễn tả sự rối bời trong tâm hồn người mẹ ấy. Bà đã mất đi sự nhạy cảm vốn có của người mẹ. Vì con cái lớn khôn, đến tuổi dựng vợ gả chồng, mẹ phải đủ nhạy cảm để hiểu điều đó. Nhưng ở đây, cái đói đã cướp mất đi sự nhạy cảm ở mẹ. Vậy nên, hình ảnh người mẹ trở thành tội nghiệp hơn bao giờ hết. Nhưng khi hiểu ra cơ sự, người mẹ ấy đã nhẹ nhàng, âu yếm “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Cái “mừng lòng” của người mẹ chứa đựng trong đó là cả niềm vui, nỗi buồn, niềm xót xa tủi thân tủi phận vì “làm mẹ nhưng không lo nổi cho con”. Câu nói ấy cũng đã làm nổi bật hình ảnh người mẹ nhân từ, hồn hậu, sẵn lòng cưu mang những đồng loại đói khát hơn mình. Chính lời nói của mẹ đã như vòng tay rộng mở để ôm người đàn bà xác xơ ấy từ cõi chết trở về với cõi sống, từ bất hạnh trở về với yêu thương. Mẹ đã mở ra cho người con gái ấy con đường sống, đã thổi vào cuộc đời tăm tối ấy một nguồn sáng ấm áp, yêu thương. Thị đã được sống lại lần thứ hai từ chính câu nói ấy của bà cụ Tứ. và cũng chính lời yêu thương chân thành mà giản dị ấy đã mang lại cho thiên truyện ngắn này một kết thúc đầy ánh sáng. Truyện mở ra đầy tối tăm của một chiều tàn, bóng tối phủ con đường, ngõ nhỏ, xác người chết, tiếng khóc, bầy quạ đói nhưng kết thúc bằng một buổi sáng ban mai nắng vàng rực rỡ. Ở đó, tiếng chổi tre quét sàn sạt trên mặt đất nghe thương đến lạ. Anh Tràng dậy trễ và cảm động nhìn mẹ và vợ quét tước nhà cửa. Bà cụ Tứ với khuôn mặt “rạng rỡ hẳn lên”, người vợ nhặt trông chẳng còn cái vẻ “chao chát chỏng lỏn như mấy hôm Tràng gặp ở ngoài cổng chợ tỉnh”. Sự thay da đổi thịt ấy đã nói lên một điều thật ý nghĩa: tình yêu thương chính là ngọn nến lung linh thắp sáng và xua tan mọi tâm hồn cằn cỗi và khổ hạnh, mang đến nguồn hạnh phúc ấm áp và sức sống mới cho con người. Câu nói của bà cụ Tứ thật giản dị mà sâu sắc là cánh cửa mở ra cuộc đời mới và cũng là cảnh cửa để mở ra cho tác phẩm một trang sách mới khi Tràng nghĩ về đoàn người đói và lá cờ đỏ.
Kim Lân và Nam Cao đã rất tài tình khi xây dựng những mẩu đối thoại tinh tế để tạo nên những chi tiết nghệ thuật đắt giá cho tác phẩm. “Một chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn”, quả đúng vậy “một gợi mà trăm suy”, chỉ một câu nói trong tác phẩm thôi nhưng có thể mở ra chiều sâu chưa nói hết của những ý tưởng sáng tạo. Lời nói của bà cô Thị Nở khiến ta hình dung cả cuộc đời dài dằng dặc của Chí Phèo, vừa giận lại vừa thương hắn vừa lại căm phẫn những cổ tục của xã hội cũ bởi những định kiến khắt khe. Câu nói ấy, suy cho cùng vừa để ta gợi nhớ lại Chí Phèo nhưng đồng thời cũng là cái kết cho Chí Phèo trong xã hội dửng dưng, lạnh lùng ấy. Còn “Vợ nhặt” lại ấm áp biết bao tấm lòng bà mẹ nông dân nghèo khổ, việc con cái dựng vợ gả chồng quả là một “cú sốc” lớn trong cuộc đời bà vì nghèo quá đâu dám mơ một ngày con cái có thể yên bề gia thất.
Việc bà cất lời đồng ý cho đôi bạn trẻ yên bề gia thất trong hoàn cảnh lúc này là mẹ bao dung, mẹ yêu thương và mẹ nhân hậu. Nếu đem so với nhau ta thấy: Kim Lân đã bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc khi ngợi ca tấm lòng người mẹ nông dân nghèo khổ và ngợi ca hết lòng tấm lòng yêu thương, đùm bọc của con người Việt Nam trong hoàn cảnh khốn cùng. Nam Cao cũng thông qua câu nói ấy của bà cô Thị Nở mà lên án định kiến hà khắc, lên án xã hội người ăn thịt người đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng. Nhà văn lên tiếng bênh vực quyền sống cho Chí Phèo, kêu gọi đổi thay xã hội ấy để cứu lấy con người.
Tóm lại, hai câu nói của hai nhân vật trong hai tác phẩm “Chí Phèo” và “Vợ nhặt” là hai câu nói đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Cũng qua đó góp phần thể hiện tài năng và cá tính nghệ thuật của các tác giả.