1) Cái chết để được sống?
Một câu hỏi quá vô lí chăng? Con người ta đâu có được sống hai lần! Song từ thẳm sâu trong tâm hồn Chí, khi vung dao lao vào bá Kiến với câu khẳng định: Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách ... biết không! ... Chỉ còn một cách là ... cái này! Biết không !... thì hóa ra, cái chết của Chí thực chất lại là một sự khởi đầu. Nói đúng hơn, đó thực chất là một sự “khởi động” lại quãng đời lương thiện trước đây hắn đã từng có, đã từng ao ước và theo đuổi “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm” nhưng đã bị giai cấp thống trị cướp mất. Như vậy, giờ đây, Chí chết hóa ra là để được sống lại với nhẫn tâm, nhân phẩm, nhân cách của một con người hiền lành trước kia. Chí chết nhưng lại là một sự chứng minh cho người dân làng Vũ Đại rằng, bản tính lương thiện và khao khát làm một người bình thường với đúng nghĩa của nó là không bao giờ mất. Hãy vững tin vào điều đó! Chiều sâu nhân bản của tác phẩm có lẽ cũng là ở phương diện ấy chăng?
2) Chết để không còn phải sống?
Đó là một quy luật tất yếu, hiển nhiên, làm gì phải bàn cãi! Vậy, Chí Phèo có khao khát sống không? Dĩ nhiên là có. Ham sống, không muốn chết là tâm lí thông thường của con người. Chí cũng không phải là một ngoại lệ. Khao khát sống, nhưng Chí Phèo lại phải tự tay cắt bỏ nó. Đó là một sự đau xót lớn, là một bi kịch khôn nguôi nhưng không thể nào tránh khỏi. Sống làm sao khi hắn không còn đập đầu, rạch mặt ăn vạ, không còn có thể làm đổ máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện được nữa, vì hắn đã tỉnh – tỉnh rượu và quan trọng hơn là tỉnh ngộ! Sống làm sao khi nẻo về của con đường lương thiện mà trước đây Chí mơ ước đã hoàn toàn “chăng tơ nghẽn lối”, ngôi nhà nho nhỏ mà hắn hằng khao khát trước kia giờ đây mãi mãi “cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa”. “Chí đã trông thấy trước cái tuổi già của hắn. Và đói rét, và ốm đau, và cô độc. Cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Gia sản của Chí lúc này còn lại gì ngoài những cái đó? Một lời giao tiếp với cuộc sống xung quanh, ao ước ấy nhỏ bé và bình thường biết bao! Vậy mà rốt cuộc lại, chỉ còn có tiếng của Chí và “ba con chó dữ”. Chua xót, đau đớn và ám ảnh! Vậy có phải chăng, cái chết với Chí là một sự giải thoát. Chết để không còn phải sống!
3) Cái chết “hoài thai” một bi kịch?
Chí Phèo chết đâu phải đã hết! Cái chết ấy “hoài thai” một bi kịch – bi kịch ấy mang tên “cái lò gạch cũ” – một biểu tượng đau xót và ám ảnh. Đừng đơn giản hóa cái sinh linh bé bỏng đang lớn dần lên trong sinh thể người mẹ thị Nở. Nó lớn lắm, bởi nó là một giai cấp, một tầng lớp, một số phận – số phận của những người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Luẩn quẩn, bế tắc, không lối thoát. Đó là tiếng kêu cứu của lòng trắc ẩn mênh mông mà nhà văn Nam Cao muốn gửi tới người đọc: hãy cứu lấy số phận những con người cùng khổ, cứu lấy nhân hình, nhân tính, đưa lại cho họ một tương lai sáng sủa trong một xã hội tốt đẹp hơn! Và sinh thời, nhà văn Nam Cao đã tin, rất tin vào điều đó: “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi” (Điếu văn)
4) Cái chết thay đổi xã hội?
Câu hỏi ấy đặt ra một vấn đề mang tầm vóc lớn lao quá chăng? Thực ra là không! Chí Phèo đâu phải chỉ chết có một mình? Trên vũng máu ghê rợn hôm ấy còn có cái xác của bá Kiến – tên cường hào ác bá nông thôn. Cái chết ấy dường như báo hiệu cho xung đột giai cấp, xung đột xã hội đã đến mức độ quyết liệt, không thể điều hòa được nữa. Trước hay sau, sớm hay muộn, nhanh hay chậm ... tất yếu sẽ xảy ra đấu tranh. Tất cả chỉ còn là vấn đề thời gian. Với cái chết của Chí, nhà văn Nam Cao muốn chỉ rõ cho người nông dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cần phải tìm ra cho mình một con đường sống khác nếu không muốn mình mãi mãi bị tước đoạt nhân hình, nhân tính, trở thành nô lệ, thành tay sai, thành công cụ trong tay giai cấp thống trị. Bởi thế, dễ hiểu vì sao khi “Chí Phèo” được xuất bản (1941), nó lại bị kiểm duyệt gắt gao và bị cắt bỏ đi nhiều đoạn. Ta cũng dễ hiểu lí do vì sao khi “Chí Phèo” ra đời, Nam Cao lại bị bọn địa chủ cường hào ở cái làng Đại Hoàng của ông căm ghét đến thế. Bởi đơn giản, chúng thấy hình bóng và những tội ác của mình bị phơi bày ra quá rõ ràng trên trang giấy giữa thanh thiên bạch nhật trước hàng triệu cặp mắt độc giả. Và có lẽ, khi in lần đầu, nhà xuất bản Đời mới (Hà Nội) đổi tên tác phẩm thành “Đôi lứa xứng đôi” không chỉ vì để giật gân, câu khách mà dường như ông chủ Nhà xuất bản ấy cũng đã phần nào cảm nhận được cái xung đột quá gay gắt, quyết liệt, dữ dội và ghê gớm của thiên truyện ngắn kiệt tác này chăng? Như vậy, liệu có cường điệu quá chăng khi ta nói, cái chết của Chí là cái chết ghê gớm, cái chết thức tỉnh, cái chết góp phần thức tỉnh xã hội?
5) Cái chết đánh động lương tri con người?
Liệu đã khi nào trong tâm thức chúng ta đã từng đặt ra câu hỏi: Có ai trong cái làng Vũ Đại ấy hiểu cho tiếng chửi của Chí Phèo chưa? Hãy tự đặt cho mình câu hỏi ấy để mà khắc khoải. Chao ôi, Chí chửi nhiều lắm, từ chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn. Vậy mà tất cả đều dửng dưng. Tiếng chửi ấy dường như không hề vướng bận một chút gì đến họ. Vì sao vậy? Thì ra, đã từ lâu, cả làng Vũ Đại này đâu còn xem Chí là người nữa! Mà không còn là người thì hắn đâu phải giống loài với mình. Họ mặc nhiên xem Chí là loài vật, là một con quỷ dữ không hơn không kém. Mà là con vật thì cho dù hắn có chửi, có hát hay có làm gì đi chăng nữa cũng vẫn thế. Họ vẫn không ai ra điều. Tất cả những người dân làng Vũ Đại đã tự cho mình có cái quyền được gạt bỏ đồng loại ra khỏi đời sống mà mỗi con người đáng ra phải được hưởng. Họ đã đánh mất đi một điều quan trọng nhất trong tâm tính của mình, đó là lòng tin vào bản tính lương thiện của mỗi con người. Hóa ra, Nam Cao đang đặt ra cho tất cả chúng ta một cái nhìn mang tính biện chứng của triết học, đó là mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa hoàn cảnh và tính cách con người. Tất cả những người dân làng Vũ Đại đã xem Chí là con vật thì đương nhiên Chí cũng không thể xem mình là con người được nữa. Là con người, làm sao anh có thể sống khi không có đồng loại? Vậy thì Chí phải sống số kiếp của một con vật để tìm cách tồn tại trên cái “sa mạc cằn cỗi tình thương” đối với anh. Đành rằng, Chí Phèo không được phép tự cho mình cái quyền được đâm thuê, chém mướn, “làm đổ máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”, nhưng cướp giật, dọa nạt, ăn vạ thì hắn phải làm nếu không muốn chết đói. Hắn hoàn toàn không có cơ hội, dù là mong manh, được hòa giải và hòa nhập với cuộc sống của người dân làng Vũ Đại. Cây cầu mong manh mà thị Nở bắc lên trong dòng tâm tưởng và khát khao của Chí đã hoàn toàn đứt gãy. Như vậy thì liệu Chí Phèo có đáng trách? Không, Chí Phèo thật đáng thương, đáng được cảm thông và chia sẻ! Từ số phận một con người riêng lẻ, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn Nam Cao muốn nhắc nhở biết bao nhiêu con người đông đúc ngoài kia: hờ hững, dửng dưng, vô tình, vô cảm với nỗi đau đồng loại là một cái cớ rất nhanh dẫn những người kia đến chỗ tha hóa để họ sa vào tội ác. Thực sự, “con người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” và “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ toàn thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi ... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương”. Vậy thì xin hãy đừng vô cảm, hãy đừng vội vàng phán xét và ruồng bỏ đồng loại, hãy tin vào bản tính tốt đẹp không bao giờ mất đi của mỗi con người, cho dù họ có là ai đi chăng nữa, bởi đó chính là “thiên lương” - bản tính tốt đẹp mà trời đất ban tặng cho mỗi chúng ta! Thông điệp nhân sinh sâu sắc ấy đâu phải chỉ có giá trị một thời, một đời và thuộc về một quốc gia, một dân tộc? Đó chắc chắn sẽ là thông điệp của muôn đời và của cả nhân loại!
Thời gian vẫn trôi trong sự miên viễn, trong sự vô thủy vô chung của đất trời và vũ trụ. Đó là thước đo khắc nghiệt nhất, sàng lọc mọi giá trị. Trên dòng đời cuộn chảy, những thứ bèo bọt, rác rưởi rồi sẽ bị loại bỏ, chỉ còn lại với đời sẽ chỉ là những chân giá trị với sức sống trường tồn, bất tử của nó. Trải qua gần một thế kỉ, “Chí Phèo” của Nam Cao vẫn đủ sức lay động biết bao trái tim độc giả, gióng lên thông điệp niềm tin vào bản tính lương thiện của mỗi con người. Trong dòng chảy của văn học hiện đại Việt Nam, cùng với “Số đỏ” (Vũ Trọng Phụng) và nhiều tác phẩm khác, “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao sẽ vẫn mãi xứng đáng là những tác phẩm văn học “ghê gớm, có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”! (Nguyễn Khải).