Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài in trong tập "Truyện Tây Bắc" (1954). Tập truyện được tặng giải nhất giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952.
Mị là một cô gái trẻ đẹp lại rất mực tài hoa, mang đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người con gái miền núi. Nhưng bạc mệnh thay cho số phận của một cô gái tài sắc vẹn toàn là số kiếp trớ trêu, đau khổ và đầy nhục nhã.
Mị xuất hiện ngay tù đầu tác phẩm đã gợi lên nỗi ám ảnh về một kiếp người tàn tạ, héo hắt: "lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Mị không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bằng số phận - một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ. Ban đầu Mị đã phải khóc cho hoàn cảnh nghịch lí của chính mình. Khóc là biểu hiện của tâm lí ức chế, của ý thức không cam chịu, không chấp nhận cái sự vô lí ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón trong tay, nhưng Mị đã ném nó xuống đất như ném đi hạnh phúc của mình để quay về chấp nhận kiếp sống trâu ngụa. Cuộc sống quá rẻ rúng, bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời Mị đều phải chịu làm một thứ nô lệ không công, sống "lùi lùi như con rùa nuôi trong xó cửa". Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay "trông ra không biết là sương hay là nắng". Mị đã làm gì sai mà phải chịu một bản án tù chung thân, phải trả giá đắt cho món nợ của cha mẹ? Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về mặt tinh thần. Dưới tầng áp bức của cường quyền và thần quyền, hủ tục phong kiến của miền núi đã làm Mị tê liệt về tinh thần, mất hết sức sông và ý thức bản năng, rút cạn nhựa sống.
Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi dập lãng quên trong đáy sâu của tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ nhưng không thể bị tiêu tan. Mặc cho dòng đời xô đẩy, cuộc sống có trở nên bất hạnh như thế nào thì sức sống tiềm tàng của người con gái ấy không bao giờ mất đi. Đó là sức sống nội tại bên trong, có sẵn ở bên trong nhưng bị che khuất, nó như hòn than âm ỉ cháy trong lớp tro tàn nguội lạnh, và khi có điều kiện nó sẽ biểu hiện, bộc lộ. Và sức sống ấy đã thực sự bùng cháy mãnh liệt ngay thời cơ thuận lợi, để khát vọng hạnh phúc lại bất chợt cháy lên, thật nồng nàn, thật xót xa trong đêm tình mùa xuân, đêm của tiếng gọi tình yêu.
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét sắc vàng ửng của cỏ gianh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của những loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Chỗ sâu sắc nhất trong tình cảm nhân đạo của Tô Hoài là nhà văn tin rằng dù trong bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn không tắt đi khát vọng sống, Mị cũng vậy, khát vọng sống ấy vẫn âm ỉ như một hòn than, làm ấm trái tim nguội lạnh từ bấy lâu. Tác động đầu tiên đánh vào nhận thức của Mị là âm thanh của "tiếng sáo vọng lại" khiến trái tim mình "thiết tha, bổi hổi". Trái tim đã thật sự rung động, đã bắt đầu có cảm xúc. Tiếng sáo đã thôi thúc Mị, tiếng sáo như cơn gió thổi làm bung đi lớp tro tàn nguội lạnh đang phủ lấy tâm hồn Mị. Lòng xúc động nhớ lại quá khứ thơ mộng của chính mình. Bởi trái tim Mị cũng đã từng yêu, từng bổi hổi rung động trước một âm thanh hò hẹn. Mị thấy lòng phơi phới trở lại, tự nhẩm lại bài hát quen thuộc:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Tiếng sáo đánh thức phần tâm hồn Mị, đánh thức khát vọng hạnh phúc trong Mị. Tiếng sáo của hiện tại đánh thức tiếng sáo của quá khứ đưa Mị trở về với mùa xuân cũ như một thời con gái ngọt ngào hạnh phúc yêu đương.
Rồi Mị uống rượu, không chỉ là uống mà uống "ừng ực từng bát". Rượu- chất men thứ hai đánh thức tuổi trẻ ấn sâu trong ý thức. Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có quyền sống của một con người: "Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi A Sử và Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau". Hiện tại và quá khứ, thân phận và khát vọng giao tranh gây gắt trong lòng Mị. Căn phòng với "cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng" lại hiện ra đầy ám ảnh, nhưng vẫn không ngăn được khát vọng của Mị. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính ngồi lên giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý thúc đâu tiên là được chết ngay đi. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng vẫn còn thiết sống.
Đến khi sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ cứ lớn dần lên, lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị chìm hẳn trong ảo giác: "Mị muốn đi chơi". Phải tới thời điểm đó thì Mị hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa rồi rút thêm cái áo.
Nhưng rồi sức sống của Mị đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng của buồng rồi bỏ đi. Thật tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Mị đang chim đắm với giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Nhưng sợi dây trói của hiện tại tàn ác đã khiến Mị đau không cựa được. Cảm giác đau nhức vì bị trói, đau khổ vì nghĩ rằng: "mình không bằng con trâu con ngựa” cứ đan xen với trạng thái "nồng nàn thiết tha" trong hơi rượu và tiếng sáo.
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Chỉ vì để hổ bắt mất con bò, mạng sống của A Phủ nằm trong tay của lũ nhà giàu thống lí Pá Tra. Mấy đêm liền, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng giữa trời, "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay". Tâm hồn Mị đã trở lại với sự căm lặng, vô cảm từ sau "đêm tình mùa xuân" ấy. Cho đến khi nhìn thấy "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ, Mị mới xúc động, nhớ lại những dòng nước mắt và nỗi khổ của mình. Thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị cởi trói cho A Phủ. Khi A Phủ chạy đi, "Mị đứng lặng trong bóng tối" và ngay sau đó "vụt chạy" theo A Phủ. Hành động ấy diễn ra một cách tức thời, không cần có một sự suy tính nào. Đó là hành động bất ngờ nhưng tất yếu. Người phụ nữ tưởng đã hoàn toàn câm lặng như Mị lại có thể hành động táo bạo và quyết liệt như vậy. Hành động đó bất ngờ nhưng không vô lí bởi nó hoàn toàn phù hợp với tính cách của Mị- một người con gái giàu sức sống.
Tác phẩm của Tô Hoài đã đánh dấu sự trưởng thành của chặng đường sáng tác, làm nên tầm cao, đóng góp riêng cho nền văn học Việt Nam chỉ bằng một chi tiết nghệ thuật làm nên giá trị: tiếng sáo. Tiếng sáo của Tô Hoài đã đem cả màu sắc, âm thanh, linh hồn của núi rừng và con người Tây Bắc. Với chi tiết tiếng sáo, không những nhà văn bật mở được thế giới tâm hồn của một nhân vật đã nhầu nát tê dại vì bị giam hãm trong bóng ma và thế lực phong kiến miền núi, mà còn hé mở cả một sức mạnh tiềm ẩn, báo hiệu khả năng cách mạng trong nhân vật Mị và con người Tây Bắc, cho thấy dù trong hoàn cảnh nào con người vẫn không tắt đi khát vọng sống. Âm thanh tiếng sáo đã neo đậu trong lòng Mị, rồi từ đó đồng loạt quá khứ của tuổi trẻ hiện về, Mị lại được đắm chìm trong thời thanh xuân say mê của mình. Tiếng sáo ấy đã đánh thức cả một miền kí ức tươi đẹp. Đó chính là sự thức giấc đầy tính nhân văn của Tô Hoài.
Ý nghĩa chi tiết nghệ thuật đó có nét tương đồng với ý nghĩa chi tiết đoàn tàu đêm trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Đoàn tàu là ước mơ và khát vọng của người dân phố huyện. Đoàn tàu như mang kí ức tươi đẹp khi hai chị em còn ở Hà Nội. Ánh sáng của đoàn tàu đánh thức những tia hi vọng nhỏ nhoi của hai chị em, cũng giống như tiếng sáo đánh thức phần đời Mị. Đoàn tàu mở ra bao khát khao và hi vọng về một cuộc sống yên bình ấm no. Lúc tàu rầm rộ đi tới cũng là lúc Liên và An dường như quên hết thảy nỗi buồn hiện tại, quên cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ. Trong lòng họ giờ đây chỉ có đoàn tàu- nó đã mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường qua phố huyện. Nhưng thứ ánh sánh của đoàn tàu như một tia chớp, vội đem ước mơ tới và cùng vội đem đi xa. Nhưng hơn hết thảy, tiếng sáo và đoàn tàu chỉ xoa dịu một chút nỗi đau chứ không thể nào phá vỡ bức tường của nỗi buồn. Tiếng sáo chứa đựng mùa xuân tuổi trẻ và đoàn tàu mang quá khứ vui vẻ trở về...
Hiểu về những đau thương trong cuộc đời cũ qua tác phẩm cũng để chúng ta hiểu được ý nghĩa của sự hồi sinh sức sống nhờ cách mạng. Điều quan trọng hơn là hiểu sức mạnh của khát khao sống tự do hạnh phúc sẽ giúp con người vươn lên nghịch cảnh, tạo dựng cuộc đời mới cho bản thân.