Tác phẩm "Vợ nhặt" trích trong tập truyện "Con chó xấu xí". Truyện được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi "Xóm ngụ cư". Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành "Vợ nhặt". Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật bà cụ Tứ là nhân vật để lại trong lòng bạn đọc nhiều dư vị nhất.
Hình ảnh người mẹ trong văn học ta cùng đã từng gặp rất nhiều. Đó là người mẹ với gánh hàng rong còm cõi trong "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm, người mẹ "không phải hòn máu cắt" trong thơ Chế Lan Viên, người mẹ đầy khổ đau với "ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ" trong thơ của Tạ Hữu Yên... nhưng người mẹ trong "Vợ nhặt" của Kim Lân vẫn làm ta rưng rung xúc động nhất. Bà cụ Tứ là người mẹ nông dân nghèo khổ có cuộc đời trải qua nhiều sóng gió. Bà cụ xuất hiện bắt đầu là cái dáng "lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng" lại "vừa đi vừa húng hắng ho". Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc ấy. Từ "lọng khọng" đầy sáng tạo và có sức gợi hình, gợi tả tạo lại trong ta một dáng hình ốm yếu, già nua, đáng thương.
Lần tìm đến gia cảnh của người mẹ ấy, ta không khỏi ái ngại cho bà. Cái đói buộc bà và anh con trai phải bỏ xứ mà đi. Chồng và con gái đã chết. Giờ bà trở thành dân ngụ cư với cái nghèo xác xơ thảm hại. Cái được gọi là nhà thực ra là túp lều rách nát "nằm chung với những bụi cỏ dại mọc lốn nhổn" nhếch nhác. Nạn đói lại đang đe dọa từng ngày. Niềm tin hằng ngày chỉ trông chờ vào anh phu xe tên Tràng xấu xí thô kệch. Một cuộc đời như thế, giữa lúc này coi như là đã hết hi vọng.
Thế nhưng cái buổi chiều u ám, nhá nhem, chạng vạng cơ hồ như cái tuổi già của bà lại mang đến cho bà bao nhiêu vui buồn lẫn lộn. Sự việc anh con trai bà lấy vợ khiến tâm trạng bà xáo trộn. Kim Lân đã dành nhiều tâm huyết của mình để miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ.
Thoạt đầu, bà cụ rất đỗi ngạc nhiên. Có hai lý do để bà ngạc nhiên: thứ nhất vì thái độ của anh Tràng hôm nay quá "đon đả". Thú hai là nhân vật "người đàn bà" có mặt ở đầu giường thằng con mình. Sự ngạc nhiên đó đã làm bà phải "phấp phỏng", rồi đến thái độ "đến giữa sân bà lão đứng sững lại" nhìn kĩ lần nữa. Biết bao câu hỏi cứ bám lấy tâm trí người mẹ tội nghiệp ấy: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kìa? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?", Ngạc nhiên đến nỗi bà phải "hấp háy" cặp mắt cho đỡ nhoèn cứ như không thể tin vào mắt mình nữa. Rồi bà "quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu". Thật tội nghiệp thay cho người mẹ ấy, cái đói và nổi ám ảnh về chết chóc đã làm cho mẹ mất đi sự nhạy cảm vốn có của người phụ nữ. Đọc đến đây, niềm xúc cảm cứ dâng lên trong lòng ta.
Rồi khi vào nhà, bà băn khoăn ngồi xuống giường. Sau đó, được Tràng giải thích cặn kẽ "Kìa nhà tôi nó chào u", "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!”. Bà cụ hiểu ra cớ sự. Để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai đòng nước mắt". Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư. Bà vừa mừng, vừa lo, vừa tủi.
Bà hờn tủi cho mình, xót thương cho các con. Bà là người phụ nữ nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha: Những trang viết xúc động nhất của tác phẩm có lẽ gắn trọn với tâm trạng mừng lo lẫn lộn của bà cụ Tứ. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật đắng cay xa xót. Người đọc có thể nhìn thấy bóng dáng bao bà mẹ thương con đứt ruột trong nỗi lòng bà cụ Tứ. Những xung đột bi kịch được đẩy lên cao trào nhưng cũng được hoá giải phần nào bởi tình thương của người mẹ. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nổi đau không lo nỗi hạnh phúc cho con mình. Bà tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ: "chao ơi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nỗi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... ". Bà khóc vì bà cảm thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Vì người mẹ, nào chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn có trách nhiệm dựng vợ, gả chồng cho con. Rồi khi có cháu, mẹ lại trở thành bà để nuôi dạy cháu. Như vậy, trách nhiệm của người mẹ là trách nhiệm của cả một đời. Vì vậy, sự tủi thân của bà cụ Tứ cũng là điều dễ hiểu. Nước mắt của người già thật hiếm hoi, bởi họ đã khóc suốt cả cuộc đời rồi nhất lại là cuộc đời nhiều đắng cay như bà cụ Tứ. Ta lại chạnh lòng nhớ đến câu thơ Nguyễn Khuyến:
"Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan"
Từ tủi cho mình, bà chuyển sang xót thương cho các con: Thứ nhất là xót thương cho con trai bà vì bà hiểu rằng "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Thứ hai là xót thương cho người đàn bà, bà cảm thương cho tình cảnh khốn cùng của người con dâu "bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi". Nghĩ như thế nhưng bà cụ không hề có ý xem thường, rẻ rúng người phụ nữ theo không con mình.
Chuyển từ hờn tủi, xót thương bà cụ Tứ thấy mừng lòng: Vất vả nuôi con khôn lớn trường thành nên cụ Tứ cũng vui mừng lắm trước sự thực con trai bà lấy được vợ. Bà vui vì tè đây con bà đã yên bề gia thất, có vợ rồi có con như bao người đàn ông khác. Câu nói nhẹ nhàng sau bao nhiêu nổi niềm được nén lại của bà mẹ "Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng" đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nổi bẽ bàng, lo sợ cho người con dâu, trả lại danh dự cho người con gái mang tội "theo trai". Và chính câu nói ấy của bà cụ Tứ đã mở ra một trang đời mới cho người vợ nhặt và cũng chính là mở sang một trang mới cho cuộc sống gia đình bà. Tấm lòng bao dung ấy của người mẹ thật vĩ đại, nhân từ biết bao nhiêu.
Bằng sự từng trải của người mẹ, bà cụ khuyên nhủ, động viên con những điều chí tình, đôn hậu, tràn đầy niềm lạc quan. Với bà "người sống đống vàng ", "qua con bĩ cực tới hồi thái lai ", "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời". Với những triết lý dân gian ấy, bà đã mang lại hơi ấm cho cả nhà: "Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau". Bà dặn dò, bảo ban hai con "Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi". Lời khuyên ấy của người mẹ là món quà vô giá, gói trọn bao tình yêu thương vô bờ của bà dành cho các con. Tấm lòng người mẹ ấy cao đẹp biết nhường nào !
Điều đáng nói ở đây là sau khi anh cu Tràng có vợ, tâm trạng của bà cụ Tứ đổi thay tích cực. Bà là người luôn có lòng lạc quan, có niềm tin vào tương lai: Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn "làm ăn có cơ khấm khá hơn" đang mở ra ở phía trước. Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Tràng nhận rỏ sự biến chuyển khác thường đó "Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhỏm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa". Phải chăng luồng gió mới của niềm tin đã thổi vào cuộc sống của những con người năm đói?
Trong truyện, có một chi tiết được nhà văn miêu tả cảm động: Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhà văn miêu tà "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rồi, và một đĩa muối ăn với cháo" nhưng tất cả đều ăn rất ngon, vui vẻ. Bà cụ Tứ vẫn tươi cười, chuyện trò rôm rả, thân mật với hai con. Bà lão nói "toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...''. Câu chuyên về "đàn gà" như một triết lý sống của bà và cũng là niềm tin vào cuộc sống tương lai của đôi vợ chồng son. Bà tin rằng “nuôi lấy đôi gà ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy chốc có ngay đàn gà cho mà xem". Đó là niềm tin vào sự sinh sôi nảy nở không ngừng, tin vào sự sinh sôi lấn át sự hủy diệt, sự sống sẽ lấn át cái chết. Bởi "Chớ than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc còn chồi nảy cây" (ca dao). Phải chăng, bà tin rằng, rồi đây vợ chồng Tràng cũng sẽ vượt qua được nạn đói, sẽ sinh con đàn cháu đống để vươn đến tương lai của ngày mai. Giữa nạn đói đang chưa có hồi kết này, niềm tin như bà cụ Tú thật hiếm hoi. Quả đúng như triết lý mà Nguyên Khải đã nói trong truyện ngắn "Mùa lạc": "Sự sống nảy mầm từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh và gian khổ. Ở đời này không có con đường cùng mà chỉ có những ranh giới. Điều cốt yếu là có đủ sức mạnh để vượt qua ranh giới ấy hay không".
Bà tự hào vì nồi "chè khoán" mà thực ra là nồi cháo cám để đãi nàng dâu mới đã khiến người đọc cảm động đến ứa nước mắt vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Có lẽ tình thương con đã làm "ngon mọi sự" miếng cháo cám nghẹn đến bứ cổ ấy sao giây phút này nó lại sang trọng đến thế. Sự tồi tàn của bữa ăn trong tương phản niềm vui của họ. Họ đều "ăn rất ngon lành" và "vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh". Họ gắn bó nhau và yêu thương nhau hơn. Tràng trở nên ngoan ngoãn và nghe lời mẹ. "Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại hòa hợp thế". Tầm quan trọng của bữa ăn đầu thật rõ. Nhưng "tiệc cưới" kéo dài không lâu, mỗi người chi được hai lưng cháo "lõng bõng". Màn cuối của bữa hoàn toàn phủ phàng khiến mọi người nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu đón lấy bát ăn và "đưa lên mắt nhìn" rồi "hai con mắt thị tối lại" vì cảm nhận tận cùng cái cơ cực của cuộc sống mới. Nhưng thị đã "điềm nhiên và vào miệng". Hình ảnh ấy có thể nói là nỗi khổ đau của cả một dân tộc vào năm đói. Nhưng khổ đau ấy cũng đã bị xóa sạch đi bởi bà cụ Tứ luôn tươi tỉnh trù tính câu chuyện làm ăn, gắng hết sức để thắp lên cho hai con ngọn lửa của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này, Kim Lân khẳng định "Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống". Tinh thần nhân bản của tác phẩm tỏa sáng ở đây.
Nhận định "Bà cụ Tứ là một người mẹ nông dân nghèo khổ nhưng giàu niềm tin vào cuộc sống" là một nhận định đúng, chính xác. Nhận định này đã thâu tóm được giá trị nội dung của tác phẩm và tôn vinh bậc thầy truyện ngắn của Kim Lân. Xây dựng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã tạc nên một tượng đài về hình tượng người mẹ, người phụ nữ bao dưng mà nhân hậu vô bờ. Người mẹ nghèo khổ ấy là hạt nhân của tác phẩm, là bài ca ca ngợi về sức sống mãnh liệt và tình yêu thương con người, tinh đồng loại của con người Việt Nam.
Thành công của Kim Lân khi xây dựng hình tượng nhân vật bà cụ Tứ là nhờ vào nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, đối thoại sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo... Kim Lân xây dựng một cốt truyện đơn giản nhưng khá hấp dẫn khiến người đọc khó rời trang sách. Ngôn ngữ có chọn lọc khá sắc sảo nhưng vẫn giản dị, gần gũi với người nông dân khiến hình tượng bà cụ Tứ được miêu tả qua từng hành động lời nói không thể nhầm với ai được.
Tóm lại, với một nghệ thuật tinh tế, ngôn ngữ chọn lọc, chi tiết đặc sắc. Kim Lân đã xây dụng thành công nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nông thôn nghèo khổ mà hiểu biết, yêu thương con và yêu thương cả những cảnh đời oái oăm, tội nghiệp bằng một tâm lòng nhân ái cảm động. Bà được nhà văn xây dựng như là biểu tượng cho người mẹ Việt Nam xưa và nay.