Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

5 câu chuyện về "Mặt trời âm nhạc" - Wolfgang Amadeus Mozart

Thứ ba - 29/08/2017 23:03
Wolfgang Amadeus Mozart (Vôn-gang A ma-đơ Mô-da) sinh ngày 27/1/1756 trong một gia đình âm nhạc ở thị trấn San – buốc (Salzburg), nước Áo. Cha Mô-da là Lê-ô-pôn, một nghệ sĩ chơi đàn Violon có tiếng trong dàn nhạc của nhà quí tộc ở San – buốc, ông cũng chính là người dạy âm nhạc cho Mô-da.
Vôn-gang A ma-đơ Mô-da là một nhạc sĩ  thiên tài, một thần đồng trong lịch sử âm nhạc thế giới. Tất cả những từ đẹp đẽ nhất để nói về tài năng âm nhạc đều xứng đáng có thể dành cho ông. Mô-da được mệnh danh là “Mặt trời của âm nhạc” do tài năng kiệt xuất,, độc nhất vô nhị, cũng như tính chất âm nhạc rất trong trẻo, rực rỡ, tươi sáng. Ngay từ khi còn sống, cuộc đời của Mô-da đã có nhiều chi tiết đặc biệt. Vì thế, theo dòng thời gian, cuộc đời ông được tô điểm bằng nhiều câu chuyện mang nét huyền thoại, không rõ hư hay thực.
 
Gia đình Mô-da có hai người con, đó là Nan-nếc, chị gái và Mô-da. Cả hai cùng sớm tỏ ra có những năng khiếu đặc biệt về âm nhạc. Nan-nếc nhiều hơn em trai năm tuổi, ngay từ khi mới bốn tuổi, cô đã tỏ ra có khả năng về âm nhạc, khi chỉ sau một năm luyện tập đã đánh được những bản nhạc khá hóc búa. Tuy nhiên, tài năng của người em còn vượt xa hơn. Sở dĩ, người ta gọi Mô-da là thần đồng âm nhạc vì tài năng của ông rất đặc biệt và được bộc lộ từ lúc còn rất nhỏ.

Vì nghèo túng và sức khỏe không tốt (mắc bệnh lao), ông mất ngày 5/12/1791 tại Viên – thủ đô nước Áo.
 
Chuyện thứ nhất:
 
Một buổi sáng mùa thu năm 1758, bà Anna Maria mẹ của Mô-da ở nhà cùng cậu con trai, Ông Lê-ô-pôn đã đi làm, con Nan-nếc thì đi học. Như lệ thường, bà ngồi vào đàn Cla-vơ-xanh (loại đàn Piano cổ) và bắt đầu chơi những bản nhạc ngắn mà hàng ngày Nan-nếc vẫn luyện tập.Trước đó, bà cẩn thận đặt cậu con trai ngồi trên chiếc ghế, cạnh cây đàn, phía bên phải mình, để vừa đánh đàn, vừa dễ dàng quay sang nói chuyện và trông nom cậu bé.

Trong khi mẹ chơi đàn, cậu bé tỏ ra rất chăm chú nghe và quan sát những ngón tay đang di chuyển của bà mẹ, có vẻ như những bản nhạc đang thu hút được sự chú ý của cậu. Không lâu, sau khi đã chơi một số bản nhạc ngắn, bà Maria đứng lên, đi vào bếp để lấy một cốc nước. Trước khi đi, bà đẩy chiếc ghế mà Mô-da đang ngồi sát lại cây đàn, cho cậu bé bám vào thành đàn đề phòng cậu có thể bị ngã.
 
Khi đang rót nước vào chiếc cốc, bà Maria chợt nghe thấy bản nhạc vừa chơi vang lên từ phòng khách, thầm ngạc nhiên nghĩ rằng cô con gái hôm nay lại đi học về sớm, bà hỏi vọng ra ngoài phòng khách: “Sao về học sớm vậy, Nan- nếc?”. Không có tiếng trả lời, bà liền nghiêng người nhìn ra phía ngoài. Bỗng nhiên bà sững người, suýt đánh rơi cả chiếc cốc trên tay, khi nhìn thấy cậu con trai bé nhỏ của mình đang mải miết đánh lại bản nhạc mà lúc trước bà đã tập. Tuy mức độ thuần thục và tốc độ của bản nhạc chưa thật chính xác, nhưng đó chính là bản nhạc mà bà vừa chơi.Không tin được ở mắt mình, sau giây lát định thần, bà Maria tiến gần lại cây đàn, nơi cậu bé vẫn đang say sưa chơi nhạc, bà hỏi:

- Con  trai của mẹ, tại sao con đánh được bài này? Chị Nan-nếc đã dạy con từ khi nào vậy?
 
- Không, chị đã dạy con đâu, vừa nghe mẹ chơi đàn, con chỉ đánh lại thôi. Bà mẹ càng ngạc nhiên:
 
- Con nói gì vậy? Vừa nghe mẹ chơi mà con đã đánh được như vậy sao? Không thể nào tin nổi? Thấy cậu con trai tỏ vẻ chú ý và rất thích thú với cây đàn, bà Maria hỏi:
 
- Nếu con muốn tiếp tục được đánh đàn, hãy nghe mẹ chơi đoạn nhạc ngắn này, rồi con thử đánh lại xem.
Tay trái giữ vai Mô-da, còn tay phải bà chạy trên những phím đàn một giai điệu ngắn. Ngay khi giai điệu vừa kết thúc, bàn tay bé xíu của cậu bé đặt lên phím đàn, không hề có chút ngập ngừng, cậu đánh lại giai điệu vừa xuất hiện. Cậu chơi chính xác cứ như đã từng tập nó nhiều lần. BàMaria lại chuyển sang một giai điệu khác, lần này đó là một câu nhạc do bà tự nghĩ ra, Mô-da cũng đánh lại chính xác. Rồi những câu tiếp theo, ngày càng trở nên dài hơn, khó nhớ hơn, cậu bé cũng đánh lại được gần như là hoàn hảo. Đi từ hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, càng thử, bà Maria càng thấy được khả năng rất đặc biệt của con trai mình.
 
Đến trưa, khi ông Lê-ô-pôn về nhà, việc đầu tiên, bà gọi ông đến bên cây đàn để cho ông chứng kiến khả năng đặc biệt của cậu con trai. Bây giờ đến lượt ông bố ngỡ ngàng khi thấy con trai mình, mọi ngày chỉ bình thường như những cậu bé khác, bỗng nhiên có những biểu hiện đặc biệt của một thiên tài âm nhạc. Sau khi kiểm tra kỹ năng khiếu của con trai bằng những đoạn nhạc khá hóc búa, ông tự hào nói với vợ: “ Đó là một tài năng đặc biệt, rồi em xem, mai đây, mọi người sẽ nhắc đến thằng bé nhà mình nhiều đấy”.
 
Điều đó đã sớm xảy ra, chỉ ít lâu sau, dưới sự hướng dẫn của ông Lê-ô-pôn, hai đứa con của ông đã cùng nhau luyện tập đồng thời hai loại nhạc cụ là Violon và Clavơxanh, chúng có thể biểu diễn độc tấu cũng như hoà tấu một cách khá thuần thục. Trong khi những người khác phải mất nhiều năm mới có thể hoàn thiện việc học kỹ thuật của một trong hai loại nhạc cụ này, thì chỉ trong vòng hai năm, những đứa con ông đã có kỹ thuật trình diễn thành thạo, đặc biệt là Mô-da. Cậu vừa có kỹ thuật tốt, có nhạc cảm và tỏ ra có tâm lý vững vàng trong khi biểu diễn. Chính vì thế Mô-da thường được ông Lê-ô-pôn giới thiệu trong các cuộc trình diễn âm nhạc ở San – buốc, sau đó là thành phố Viên thủ đô nước Áo, và khắp các thành phố lớn của Châu Âu.
 
***
Chuyện thứ hai:
 
Vào thời kỳ đó, thành Viên là nơi tập trung của những nhạc sĩ giỏi nhất thế giới, họ thường đến đây để học tập , sáng tác và khẳng định danh tiếng của mình. Vì thế Viên được coi là thủ đô của nền âm nhạc Châu Âu, ở đó có rất nhiều nhà hát lớn, nhiều dàn nhạc xuất sắc và các nhạc sĩ  tài ba. Tuy nhiên nhờ tiếng tăm nổi như cồn của thần đồng âm nhạc San – buốc, chỉ mới sáu tuổi, Mô –da đã cùng với chị gái được trình diễn âm nhạc trong hoàng cung của nước Ao. Buổi diễn này có mặt rất đông cận thần, đại sứ các nước, có hoàng tử và công chúa tham dự và đặc biệt là sự có mặt của nữ hoàng của nước Ao thời bấy giờ là Ma-ri-a Tê-rê-da, Phần đầu của buổi hoà nhạc do hai chị em cùng chơi, hoà tấu bốn tay trên cây đàn Cla-vơ-xanh, trình độ biểu diễn của hai chị em đã đạt tới trình độ xuất sắc và nhận được sự tán thưởng rất nhiệt tình của giới thượng lưu của nước Ao, Phần tiếp theo, Mô-da biểu diễn một mình những khúc nhạc tùy hứng mà cậu ưa thích. Những âm thanh riêng lẻ vang lên, rồi một làn âm thanh hoà quyện nhau như một dòng suối ùa ra tưởng chừng như bất tận, cả căn phòng như tràn ngập ánh sáng, tràn ngập hương thơm và màu sắc của vô vàn loài hoa trên thế gian.
 
Khi tiếng đàn cuối cùng của Mô-da vừa tắt, nữ hoàng Tê-rê-da giơ cao hai bàn tay lên, cả cung điện như thừa lệnh của nữ hoàng, cùng rền lên những đợt vỗ tay tưng bừng lời ngợi khen ùa ra, tưởng như không thể dứt. Một nhạc sĩ già, vóc người nhỏ nhắn, ăn mặc trang trọng, bước đến gần cậu, đặt tay lên vai, nhìn thật lâu vào đôi mắt đang tập trung và gương mặt hơi tái đi vì cảm xúc của cậu bé. Ông khẽ kêu lên:
 
- Không thể ngờ được! Thật là siêu phàm!
 
- Nữ hoàng quay lại phía ông, nói gần như đáp lại lời ông :
 
- Đúng thế, ông Hay – đơn ! Đây thật sự là một hiện tượng siêu phàm!
 
Người đàn ông đứng đó, chính là nhạc sĩ  Hay - đơn rất nổi tiếng và vĩ đại của thành Viên. Ông cúi đầu, nói với Mô-da bằng một giọng trầm, như nói với một người bạn tâm tình.
 
- Ta ngày xưa cũng đã sáng tác âm nhạc từ năm lên sáu đấy, cháu ạ. Nhưng ta khổ cực lắm! Ta là đứa trẻ mồ côi, cháu hiểu không, tức là không còn cha mẹ nữa ấy mà! Cháu giỏi lắm, nhất định cháu còn có điều kiện tiến rất xa.
 
Đúng lúc đó, hoàng tử  Giô – dép, là con trai cả của Tê – rê – da, người đã nhiều năm được học tập âm nhạc, tiến lại gần, trao cho Mô-da một cây Violon và nói với giọng thách thức:
 
- Cậu bé quê mùa, còn sức chơi thêm một bản nữa không?
 
Mô-da nhìn thẳng vào mắt Giô – dép và đỡ lấy cây đàn. Sau khi biểu diễn nhiều, cậu đã rất  mệt. Lượt nhìn quanh như muốn tìm một hình ảnh nào đó quen thuộc, ánh mắt cậu dừng lại trước công chúa út đang ngồi ngoan ngoãn trên chiếc đệm gần nữ hoàng. Cô bé mặc áo xa tanh màu hồng, thêu thùa rất đẹp. Cô có đôi mắt đầy thiện cảm, đang mở to nhìn Mô-da, trông cô giống như  Lu – i – da, người bạn thân thiết nhất của Mô-da đang sống ở San – buốc. Cảm giác đó làm Mô-da vui hẳn lên, cậu nhắm mắt lại, nghiêng người, đưa chiếc ác sê lướt trên dây đàn, một dòng âm thanh mượt như nhung, trong vắt như pha lê như từ trên trời chảy xuống, làm gian phòng bỗng trở nên lặng tờ. Mô-da đã ứng tác bản nhạc thật hay, thật bất ngờ khi mà không hề chuẩn bị trước. Khi tiếng nhạc dứt, cậu phải nghiêng mình đáp lễ đến bốn năm lần mà tiếng hoan hô vẫn không dứt. Quay người lại phía nữ hoàng định chào lần cuối, bỗng nhiên, Mô-da thấy choáng váng, mọi vật chao đảo, cậu bước thêm một bước và ngã nhào xuống tấm thảm trên sàn.
 
Viên quan hầu  đứng ở gần cửa kêu lên, vội bước tới, nhưng công chúa út đã nhanh hơn, cô vụt nhảy khỏi chỗ ngồi, chạy lại đỡ Mô-da dậy. Mô-da ngẩng đầu lên và nhìn thấy ánh mắt đầy ân cần, trìu mến đang nhìn mình tha thiết.
 
- Lu-i-da ! Mô-da buột miệng kêu lên.
 
- Không phải Lu-i-da đâu ! Tôi là Tô ni ! Mà thôi, đừng xấu hổ nhé ! Cái sàn này trơn lắm. Mọi ngày chơi ở đây, tôi vẫn bị ngã luôn ấy mà!.
 
Những lời an ủi giản dị, thân tình ấy làm Mô-da muốn khóc lên vì cảm động. Cậu lập cập đứng thẳng dậy, không biết nói gì, nước mắt cứ định trào ra. Công chúa nắm tay Mô-da dắt cậu lại gần chiếc ghế của Tê-rê-da, nữ hoàng hỏi:
 
- Con có đau không?
 
Mô-da nhìn công chúa Tô-ni với ánh mắt biết ơn, trả lời:
 
- Con không sao ạ! Công chúa thật tốt bụng! Khi lớn lên, lệnh bà cho cô ấy kết bạn với con được không ạ? Con thích sẽ được chơi thân với cô ấy!.
     
Tô-ni nói ngay:
 
- Sao lại  không? Thưa mẫu hậu, con cũng thích được chơi với cậu nhạc sĩ này. Mẫu hậu sẽ đồng ý chứ?
 
Nữ hoàng Tê-rê-da trong lúc đang có tâm trạng phấn chấn liền cười và nói vui:
 
- Để rồi sau này ta cho đưa nó vào cung dạy nhạc cho con nhé! Sẽ tha hồ mà kết thân với nhau!.
 
Tức thì, công chúa Tô-ni ôm hôn mẹ, trông cô có vẻ rất sung sướng, còn Mô-da thì đứng ngây người không biết sao.

Nhưng về sau, tình bạn ấy chẳng bao giờ diễn ra, chắc Mô-da không thể hình dung nổi, cô công chúa Tô-ni xinh đẹp và tốt bụng ngày ấy, sau này lại trở thành một hoàng hậu hết sức thâm hiểm của nước Pháp. Công chúa Tô-ni lớn lên, trở thành hoàng hậu Ma-ri Ang-toan-nét, một người có nhiều tham vọng, đầy quyền hành và mưu mô ghê gớm. Hai năm sau khi Mô-da qua đời, hoàng hậu Ma-ri Ang-toan-nét đã bị Toà án Cách mạng Pháp xử tử vào năm 1793, cùng chồng là vua Lu-y thứ 16.
 
***
Chuyện thứ ba:
 
Những ngày tháng 02 năm 1790 ở Viên rất lạnh giá. Gió rét căm căm. Buổi tối, một làn sương mỏng bao trùm lên thành phố, càng tăng vẻ u ám. Có một cỗ xe ngựa mang biểu trưng của hoàng gia nước Áo dừng lại trước cửa nhà Mô-da, trông xe không thắp đèn, hai vị quan hầu của hoàng cung vội vã bước ra, chạy vội vào phòng Mô-da, gõ cửa. Mô da đang ngồi sáng tác bên cây đàn dương cầm. Một ngọn nến lớn toả sáng trước mặt.
 
- Thưa nhạc sư - Viên quan hầu nói Thánh thượng mệt nặng, Người sai chúng tôi đến triệu ngài, xin hãy đi ngay cùng chúng tôi.
 
Mô-da ngạc nhiên đứng dậy, vội vàng mặc áo khoác, trở vào dặn vợ Công-xtăng mấy câu, rồi bước ra xe. Anh được đưa tới Suên-brun, lâu đài của hoàng gia nước Áo.
 
Đêm lạnh lẽo mù mịt. Lối sỏi quen thuộc như đưa anh trở về quá khứ của mình. Lòng buồn vui lẫn lộn, xen cả chút mệt mỏi, lo âu. Giô-dép cần gì đến anh, một nhạc sĩ nghèo nàn, quẫn bách, trong đêm giá rét buồn bã này?
 
Mô-da được đưa tới một căn phòng lớn, có thắp những ngọn nến to. Một chiếc giường rộng trải đệm màu trắng, trên đó là một người đàn ông khổ người to lớn nhưng gầy guộc, khuôn mặt lúc thì đỏ vì sốt cao, lúc lại tái vì những cơn đau. Mấy vị ngự y chăm sóc sức khoẻ cho nhà vua, đang ngồi trên những chiếc ghế nhỏ ở một góc, thì thầm trao đổi gì với nhau. Thấy Mô-da bước vào, họ đứng dậy chào. Một người đến bên hoàng đế, thông báo, Mô-da được lệnh cho tiến lại gần.
     
Hướng về phía Mô-da, vua Giô-dép nói thều thào :
 
- Ta  muốn anh đánh cho ta nghe những bản nhạc của anh, bản nhạc nào thật ấm áp, yêu đời, bởi vì lúc này, ta đang phải đơn độc chiến đấu với thần chết!.
 
Mô-da cúi thấp người, tỏ ý tuân lệnh, những người hậu cần đẩy chiếc đàn Piano vào phòng. Ngồi xuống ghế, anh đặt tay lên phím đàn, nhớ lại khúc nhạc tuổi thơ ấu mình hay dạo. Ngẩng mặt lên, anh thấy những bức chân dung rất lớn treo trên tường. Có cả chân dung nữ hoàng Tê-rê-da và công chúa út Tô-ni thời con gái. Anh bỗng quên đi không khí bệnh tật xung quanh, vẻ mặt khắc khổ của nhà vua, quên đi những ánh nến lung linh như ma quái trên tường, quên đi cả bao điều cay cực, bất công mà đời anh đã phải gánh chịu. Anh chìm vào khúc nhạc tuyệt vời của mình. Am thanh tràn khắp phòng như những tia lửa rực sáng, ấm áp. Khúc nhạc tươi rói, mạnh mẽ, tuôn trào từ trong tâm hồn, lướt trên những ngón tay, chứa đầy sức sống tuổi thanh xuân. Mô-da như đang nhìn thấy mùa xuân đã xa rồi ở Viên, hoa táo và hoa mận nở trắng trong các khu vườn  xanh mát, màu nắng mai trên những ngọn tùng cao óng ánh, như những ngọn tháp nhọn dát đầy vàng. Anh nhớ lại tuổi thơ kỳ diệu của mình, một thần đồng âm nhạc, khi ấy Giô-dép đang còn là  một thái tử đầy hiếu thắng, đã thách thức đưa cho anh cây đàn Violon để thử tài. Anh đã thắng cuộc, nhưng rồi chóng mặt ngã nhào xuống thảm, và cô bé Tô-ni dịu dàng hồi ấy chưa là hoàng hậu nước Pháp, đã chạy đến nâng anh dậy. Trí tưởng tượng và âm nhạc đưa anh đi mãi. Mô-da thấy lại mẹ anh, vẻ mặt hiền hậu, thường thích ủ tay cho con bằng những củ khoai tây nướng nóng, trước khi anh dạo đàn. Anh thấy lại chị Nan-nếc, hồi đó còn xinh đẹp, thông minh, còn tài năng biết bao nhiêu! Và ông bố anh, ngày ấy đang tràn đầy nghị lực, vui vẻ tự tin, dắt tay anh, đưa anh đi tới những ngả đường rộng mở trước ngưỡng  cửa cuộc đời.
 
Mô-da chợt choàng tỉnh khi nghe tiếng thở mạnh của vua Giô-dép. Anh quay sang và nhìn thấy những giọt nước mắt đang lăn trên khuôn mặt gầy guộc của đức vua.
 
- Hãy dừng lại Mô-da, ta xin cảm ơn anh – Nhà vua nói chậm rãi, nhưng rõ ràng, ngừng một lát, ông nói tiếp – Anh là người đã biết sống xứng đáng, vì cái đẹp của cuộc đời! Còn ta, ta chỉ biết sống vì trật tự của nó ! Ta đã làm hết sức, nhưng tới phút này, trước khi nằm xuống, ta cũng chưa rõ đã đạt tới mục đích hay chưa? Ta có tất cả, quyền lực, triều đình, quân đội, đất đai. Còn anh, anh chỉ có cái đầu và đôi tay như bao người khác. Nhưng biết đâu, những thế kỷ sau, dân tộc Ao sẽ đánh giá anh hơn cả ta! Ta chưa bao giờ có cảm giác nhỏ bé trước quyền lực, những có những giây phút, ta thấy mình thật nhỏ bé trước cái đẹp vĩnh cửu của cuộc đời.
 
Mô-da giữ yên đôi tay trên phím đàn, xung quanh là một sự im lặng thiêng liêng. Anh hiểu là nhà vua đang thốt ra những lời tự thú của một người đang hấp hối, không còn là lời nói của một ông vua, với kẻ thần dân nghèo hèn. Trong thâm tâm anh vẫn kính trọng Giô-dép, đó là một ông vua có ý chí, có hiểu biết và khao khát làm những công việc vĩ đại. Ông muốn trở thành minh quân, những có lẽ đã không đạt được. Hơn bao giờ hết, anh cảm thấy buồn rầu sâu sắc, thậm chí còn thương hại  ông ta, mặc dù đối với anh, đó là con người đang có địa vị cao sang tột đỉnh.
 
Nhà vua Giô-dép qua đời ngày 20/2/1790. những lời nói của Giô-dép ngày ấy, đến nay đã trở thành sự thật, lịch sử đánh giá rất cao vai trò của Mô-da. Mô-da là con người của cả nhân loại, trong khi Giô-dép chỉ là một ông vua của nước Áo.
 
***
Chuyện thứ tư:
 
Vào một đêm tháng 5, năm 1791, có một cơn mưa giông dữ dội đổ xuống thành Viên. Ngôi nhà của Mô-da chìm trong im lặng khi mọi người đều đã đi ngủ, anh bước xuống phòng khách để tắt ngọn nến cuối cùng. Chợt nghe thấy tiếng gõ cửa khá mạnh, Mô-da thầm ngạc nhiên vì không hiểu trong đêm mưa to, gió lớn lại rất khuya khuắt như thế này, ai có việc gì mà lại cần đến anh. Dừng lại ở giữa phòng, lại nghe tiếng gõ vang lên, Mô-da do dự bước lại gần cánh cửa, tay cầm ngọn nến, anh cất tiếng:
 
- Ai thế ?
 
Lần trong tiếng mưa rơi, Mô-da vẫn nghe rõ tiếng người rành rọt:
 
- Thưa ông, xin hãy mở cửa? Tôi muốn được gặp ngài Mô-da.
 
- Tôi đây, nhưng xin ông đi cho, đã khuya rồi lắm. Có việc gì, ngày mai mời ông quay trở lại.
 
- Thưa ngài, việc của tôi rất gấp, chỉ xin gặp ngài ít phút thôi, tôi hứa sẽ không dám làm phiền ngài lâu.
 
Mô-da rất do dự, nhưng nghe lời nói khẩn thiết của người lạ, anh kéo then cài, hé cánh cửa, nhìn ra bên ngoài. Đúng lúc ấy, một ánh chớp loé lên, làm Mô-da nhìn rõ hình dáng người lạ mặt, khiến anh rùng mình lùi lại. Đó là một người cao lớn, chắc là đàn ông, ông ta đội chiếc mũ che mưa rộng vành, mặc trang phục toàn bộ bằng vải màu đen. Ghe gớm hơn, nhờ ngọn nến và ánh chớp loé sáng, Mô-da còn thấy ông ta che mặt bằng chiếc khăn đen, dáng vẻ thật lạ lùng, đặc biệt. Định khép cửa lại, nhưng không kịp, người lạ mặt đã giơ tay giữ lấy cánh cửa, giọng nói của ông ta hơi trầm:
 
- Thưa ngài, xin đừng sợ, tôi đang có lí do phải mặc trang phục như thế này. Nhưng đảm bảo với ngài, tôi  sẽ không làm điều gì khiến ngài phải phật ý. Hãy để tôi vào phòng, xin ngài hãy nghe tôi nói.
 
Nghe những lời này, Mô-da đã bình tâm lại đôi chút, khép cánh cửa lại. Mô-da quay vào phòng và đối mặt với con người lạ lùng đó.
 
- Tôi xin được trao đổi với ngài câu chuyện của tôi trong phòng riêng của ngài được không? Tôi muốn được giữ kín chuyện này.
 
- Tôi không có phòng riêng, vả lại mọi người trong nhà đã ngủ hết rối, có chuyện gì, xin ông nói ngay cho, ngập ngừng rồi Mô-da hỏi – Ông có muốn ngồi không?
 
Người lạ mặt quay người nhìn xung quanh, những giọt nước mưa từ chiếc mũ rộng vành của ông ta bắn ra thành một vòng. Tiến lại gần hơn một bước, ông ta nói khẽ:

- Tôi xin được vào ngay câu chuyện. Dừng lại, ông ta nói tiếp – Để giữ bí  mật cho việc này, xin ngài đừng để ý đến cách ăn mặc của tôi. Thưa nhạc sĩ, tôi cũng làm nghề  sáng tác âm nhạc, tôi làm việc đó cho một nhà thơ ở cách đây rất xa. Thưa ngài, tôi có một một gia tài lớn, nhưng gần đây tôi mắc phải một căn bệnh, bệnh này đã đến giai đoạn cuối và thời đại của chúng ta chưa có cách chữa. Các bác sĩ nói rằng, có thể tôi chỉ còn sống được ít ngày nữa. Vậy là tôi sẽ chết đi mà không để lại một dấu ấn gì cho cuộc đời này, những bản nhạc tôi viết, chưa bao giờ gây được tiếng vang nào cả. Tôi xin ngài hãy nhận lời cho tôi việc này. Hãy viết một bản nhạc và bán nó cho tôi, tôi biết ngài đang rất khó khăn, nhưng với số tiền tôi trả, sẽ giúp ngài vượt qua được những khó khăn đó.
 
- Tại sao ông lại chọn tôi? Ông cần bản nhạc như thế nào?
 
- Bởi vì ngài đang là người giỏi nhất? Tôi cần một bản cầu hồn. Hãy viết một bản cầu hồn hay nhất nhưng phải có 12 chương, Hãy làm nhanh cho tôi, đừng để cho bất kỳ ai biết và ngài sẽ nhận được những gì xứng đáng.
 
Trên bàn tay đi găng tay màu đen của người đàn ông kia, từ lúc nào đã xuất hiện một túi tiền, bước đi một vài bước, ông ta đặt nhẹ nó lên bàn. Rồi ông ta bước thẳng ra cửa, quay lại nói bằng giọng nhẹ nhàng, nhưng rất rõ :
 
- Xin hãy giữ kín cho. Một bản cầu hồn có 12 chương – Ông ta kéo cửa và bước vào màn đêm.
 
Gió lạnh thổi ùa vào, Mô-da vội bước lại đóng cánh cửa,anh nhìn ra ngoài thấy cỗ xe ngựa đang lăn bánh rất nhanh giữa trời mưa, anh ngạc nhiên vì chẳng nghe thấy cả tiếng vó ngựa.
 
Mô-da quay vào và ngồi xuống ghế, im lặng hồi lâu, anh bỗng cảm thấy mệt mỏi rã rời, mọi việc diễn ra như một giấc mơ, Mô-da thầm nghĩ. Nhưng nhìn thấy túi tiền nằm nghiêng trên bàn, anh thở dài, vì hiểu rằng đó không phải là giấc mơ, mà là sự thật.
 
Với khoản tiền 50 đuy-ca đó, gia đình Mô-da đã có điều kiện trang trải, mua sắm những vật dụng cần thiết. Nhưng kể từ hôm đó, hình ảnh về con người lạ mặt và yêu cầu lạ lùng của ông ta cứ ám ảnh Mô-da mãi. Vội vàng hoàn thành xong những bản nhạc khác đang viết dở, Mô-da suy nghĩ và bắt đầu viết khúc nhạc cầu hồn, với cảm giác như mình đang mắc vào một món nợ rất lớn. Hình ảnh người đàn ông lạ mặt thường xuyên xuất hiện trong tâm trí của Mô-da và anh liên tưởng đến ông ta giống như thần chết đang đến đòi nợ mình. Rồi có những khi anh tự hỏi, mình đang viết khúc cầu hồn này cho ai, cho con người lạ lùng đó hay để cầu hồn cho chính mình. Sức khoẻ của anh trước đây đã rất yếu, lại càng suy sụp đi từ đó.
 
Người lạ mặt còn quay lại thêm hai lần nữa, vẫn vào những lúc đêm rất khuya, và vẫn với bộ trang phục kỳ quái của mình. Ông ta tỏ vẻ hài lòng với những ý tưởng và những khúc nhạc Mô-da đã viết xong, nhưng vẫn hối thúc anh phải làm nhanh hơn nữa. Mô-da nhận được số tiền lớn hơn so với lần trước,và nhờ thế vợ anh là Công – xtăng có điều kiện đi chữa bệnh.

Những ngày cuối đời, Mô-da đã làm việc với mức độ phi thường, anh dồn sức vào việc hoàn thành bản cầu hồn, anh muốn đó sẽ là một bản nhạc vĩ đại. Tuy mang tính chất cầu hồn, nhưng bản nhạc phải toát lên tấm lòng yêu cuộc sống, yêu con người bi thiết, bản nhạc mà Mô-da có dự cảm là đang dành cho chính bản thân mình.
 
Đêm 19/11/1791, khi Mô-da mới chỉ viết hết chương thứ tám trong bản cầu hồn, một cơn sốt nặng ập đến, tay và chân anh cứng lại, cử động rất khó khăn, nhưng trí tuệ vẫn minh mẫn. Ý nghĩ đau khổ và bất lực vì phải bỏ lại trên đời một gia đình nghèo túng, bơ vơ, làm Mô-da day dứt không nguôi.
 
Ngày 3/12, biết mình đã đi đến chặng cuối của cuộc đời, nằm trên giường bệnh trong nhà, Mô-da cho gọi Đuy-xmay-ê là người học trò thông minh và đáng tin cậy nhất đến. Đưa Đuy-xmay-ê tập bản thảo khúc cầu hồn, anh đã kể lại cho người học trò nghe toàn bộ câu chuyện về sự ra đời của bản nhạc này. Mô-da nhờ Đuy-xmay-ê viết nốt bốn chương còn lại để hoàn tất bản nhạc, anh hướng dẫn Đuy-xmay-ê viết theo phác thảo của mình và dặn nếu người lạ mặt đó tìm đến, hãy đưa trả bản nhạc và không nhận thêm đồng tiền nào của ông ta nữa.
 
Mô-da qua đời vào ngày 5/12/1791. Nhớ lời thầy dặn, sau đó Đuy-xmay-ê đã viết tiếp bốn chương còn lại của bản nhạc này một cách khá xuất sắc. Giữ bản nhạc này một thời gian, Đuy -xmay-ê dặn vợ Mô-da rằng, nếu thấy người đàn ông lạ mặt nào đến đòi bản nhạc cầu hồn, hãy chỉ ông ta tới nhà Đuy-may-ê. Chờ đợi mãi, nhưng con người bí ẩn đó đã không quaytrở lại, có thể ông ta sợ câu chuyện này bị vỡ lở, hoặc có khi ông ta đã chết trước Mô-da. Cuối cùng, Đuy-xmay-ê đưa trả bản nhạc cho vợ Mô-da là Công – xtăng, và kể lại tất cả. Về sau, bản nhạc được gửi tới nhà in và vẫn được giữ tên tác giả là Mô-da. Câu chuyện từ đó lan rộng ra và người ta thường đặt ra câu hỏi. Vậy trong cuộc đời mình, Mô-da đã bán bản nhạc nào chưa, hay đó chỉ là bản duy nhất Mô-da định bán và chưa thực hiện được. Dù sao, khúc cầu hồn vẫn là sáng tác cuối cùng của nhạc sĩ vĩ đại này, và nó xứng đáng là một kiệt tác trong nền âm nhạc thế giới.
 
***
Chuyện thứ năm:
 
Đến những phút cuối cùng trong cuộc đời, Mô-da vẫn khăng khăng từ chối, không để thầy tu đến rửa tội. Trái lại ông chỉ ao ước : “ Trời ơi! Giá có ai kịp đánh cho tôi được nghe một đoạn nhạc nào đó  trong vở Cây sáo thần của tôi lần chót, thì hay quá!”
 
Nhạc trưởng Rô –xne là bạn của Mô-da, đêm ấy mới ở buổi biểu diễn vở nhạc kịch Cây sáo thần, từ nhà hát trở về, rẽ vào thăm Mô-da và kể cho ông nghe kết quả của đêm biểu diễn. Mô-da nhắc lại đề nghị và Rô – xne ngồi ngay xuống chiếc Piano, đánh cho ông nghe bản tình ca của chàng Pa –pa – ghê – nô, chàng nông dân vui tính thích đi đánh bẫy chim. Tiếng đàn vang lên, những âm thanh riu rít, vui vẻ như nhảy nhót trong thinh không, và Mô-da hài lòng thiếp đi trong nụ cười. Đêm ấy, ông mê sảng trong cơn sốt cao và không tỉnh lại được nữa. Lúc mười hai giờ đêm, khi tiếng chuông nhà thờ Xanh Ê chiên vẳng lại, ông bừng tỉnh mở mắt nhưng cái nhìn đã trở nên trống rỗng, như nhìn vào cõi hư vô. Ông nhắm mắt lại như ngủ, yên lặng không kêu rên một lời, và lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng vào rạng sáng ngày 5/12/1791.
 
Cái chết của Mô-da là một tổn thất nặng nề với nền âm nhạc của nước Ao và thành Viên, nhạc sĩ vĩ đại này qua đời khi đang trong giai đoạn sung sức nhất của sự nghiệp sáng tác âm nhạc. Tuy nhiên, do không chịu cộng tác và có những bất đồng với giáo hội lúc ông còn sống, vị tổng giám mục đã nhất định không cho phép chôn Mô-da ở nghĩa trang chính của thành phố. Người ta phải an táng ông ở nghĩa trang Xanh Mac, một nghĩa trang dành cho người nghèo, nơi chỉ dành cho những linh hồn lang thang, cơ nhỡ. Đó lại là một sự bất công nữa dành cho Mô-da, sau bao nhiêu điều tốt đẹp ông đã để lại cho cuộc sống.
 
Buổi chiều ngày 6/12, mây đen và giá lạnh bao phủ khắp bầu trời, không khí u tối và ảm đạm lạ lùng. Vì rất yếu, nên vợ Mô-da không thể đi đưa tang chồng được. Bà phải nhờ những người bạn và học trò của Mô-da lo liệu giúp. Lúc đầu, khi đám tang rời khỏi ngôi nhà của Mô-da, chầm chậm đi trên các đường phố, đã có rất đông người đi theo linh cữu, họ muốn được tiễn biệt người nhạc sĩ tài năng nhất của thành Viên, con người mà họ mến mộ, yêu quí. Nhưng thời tiết hôm đó quá khắc nghiệt, ngay trước khi cỗ xe bắt đầu chuyển bánh, bão tuyết đã nổi lên. Vì thế, cỗ xe tang do ngựa kéo, càng tiến về phía ngoại ô, số người đi theo ngày càng thưa dần. Khi chiếc xe vượt qua chiếc cầu, ranh giới giữa nội thành và ngoại thành, Đuy- xmay – ê và những học trò khác của Mô-da quay đầu nhìn lại, họ thấy số người đi theo chỉ còn rất ít. Sang tới ngoại ô, cỗ xe tiếp tục lăn bánh trên con đường lầy lội, gập gềnh giữa cánh đồng hoang, hiu quạnh. Bão tuyết ở đây còn dữ dội hơn nhiều so với trong thành phố, tuyết bay mù mịt khắp nơi, đến nổi chỉ đứng cách nhau vài mét đã không nhìn rõ mặt. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là vào tới nghĩa trang, bỗng nhiên chiếc xe sa xuống ổ gà, không thể đi tiếp được nữa. Người thì đẩy, người thì kéo, người thì thúc ngựa, nhưng đường quá trơn nên cỗ xe chẳng hề nhúc nhích. Có ai đó chợt nghĩ ra, đề nghị mọi người tạm tìm chỗ trú mưa, đợi mưa gió ngớt đi một chút, sẽ khênh thi hài của Mô-da vào trong nghĩa trang chôn cất.

Tất cả nhanh chóng tản ra tìm chỗ trú, để lại cỗ xe đứng ở giữa đường, nhưng quanh đó chẳng có chỗ nào có thể dừng chân được. Trời bắt đầu tối, tiếng gió rít và tiếng tru của những con chó  hoang vang lên ghê rợn, những cái cây mà mọi người chạy đến để trú chân vặn vẹo, nghiêng ngả. Không thể tiếp tục đứng như thế được nữa, họ bảo nhau hãy cùng chuyển thi hài Mô-da vào trong nghĩa trang, tiến hành chôn cất, để có thể sớm quay lại thành phố. Mọi người cất tiếng gọi nhau và cùng chạy lại cổng nghĩa trang. Khi những người đầu tiên đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì không thấy cỗ quan tài, trong đó có thi hài Mô-da ttên xe ngựa nữa. Chỉ thấy đôi ngựa đang dậm chân, vùng vẫy, có vẻ như rất bồn chồn, sợ sệt. Những người phu đào huyệt quay sang hỏi nhau, xem ai đã mang quan tài vào nghĩa trang hay chưa. Nhưng tất cả cùng quả quyết, không ai làm việc đó, vả lại trong lúc mưa bão dữ dội như thế thì chẳng ai có thể làm nổi. Hai người học trò của Mô-da còn chạy hẳn vào trong nghĩa trang để tìm kiếm, sau ít phút họ trở ra và nói rằng, không phát hiện ra điều gì trong đó.
 
Cuối cùng thì mọi người cũng chẳng muốn ở lại, để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Họ giục nhau mau chóng quay trở về, giống như tháo chạy khỏi nơi mưa gió, quạnh hiu và bí ẩn này. Những ngày tiếp theo, bão tuyết và giông tố liên miên, chẳng ai lai vãng đến nghĩa địa nữa. Ít lâu sau, vài học trò thân tín của Mô-da cùng vợ ông có quay lại nghĩa trang để tìm hiểu thêm, họ có hỏi những người phu đào huyệt, nhưng tất cả đều lắc đầu không thể giải thích được điều gì đã xảy ra.
 
Từ  đó đến nay, đã có bao nhiêu cuộc tìm kiếm ngôi mộ của Mô-da, nhưng đều không đạt được kết quả. Thi hài của Mô-da có thể đã được trả về với đất, hoà lẫn với cát bụi, hoàn toàn vô danh,vô tăm tích, giống như bao nhiêu người chết nằm trong nghĩa địa này.
 
Sau này, khi tên tuổi của Mô-da ngày càng trở nên nổi tiếng hơn, tại nghĩa trang Xanh Mac, người ta đã xây dựng một ngôi mộ rất đẹp để tỏ lòng biết ơn nhạc sĩ tài năng này. Ngày ngày, có những người từ khắp nơi trên thế giới đến đây, họ đặt lên mộ ông những bó hoa tươi thắm và cùng ngồi im lặng, như muốn để nghe thấy những giai điệu tuyệt vời ông đã viết nên. Tuy nhiên, chúng ta đã biết, trong ngôi mộ trang trọng đó không có thi hài của Mô-da. Ngôi mộ đặc biệt đó cũng giống như bao nhiêu điều đặc biệt khác trong cuộc đời Mô-da, mãi nhắc nhở chúng ta về một tài năng âm nhạc kiệt xuất trong lịch sử nhân loại.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây