* Chuẩn bị đọc
Câu hỏi trang 126: Em nghĩ gì về những người sẵn sàng cứu giúp người khác trong cơn hoạn nạn?
Trả lời:
- Những người sẵn sàng cứu giúp người khác trong cơn hoạn nạn là người dũng cảm. Con người có muôn vàn điều tốt đẹp và lòng dũng cảm chính là một nét phẩm chất cao quý trong nhân cách đạo đức con người. Con người luôn cần và luôn hướng tới cái đẹp – đó là quy luật của cuộc sống. Cùng với những phẩm chất cao quý khác của nhân cách con người, lòng dũng cảm cần được giữ gìn, vun đắp để nó tồn tại mãi trong cuộc đời này.
* Trải nghiệm cùng văn bản
1. Tưởng tượng: Em hình dung ra sao về cảnh “tả đột hữu xung” của Lục Vân Tiên trong đoạn thơ này?
Trả lời:
Em tưởng tượng: Vân Tiên đứng giữa quân địch, bốn phía vây bắt. Trong bóng tối, anh ta như con rồng sẵn sàng đối đầu, gươm giáo lóe sáng. Không còn lựa chọn, Vân Tiên quả quyết quăng gươm giáo, tìm đường chạy giữa vòng vây.
2. Suy luận: Việc Vân Tiên bảo Nguyệt Nga “khoan khoan ngồi đó chớ ra...” cho thấy chàng là người như thế nào?
Trả lời:
- Việc Vân Tiên nói với Nguyệt Nga rằng: Khoan khoan ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai, cho thấy chàng là người giữ đúng chuẩn mực đạo đức, nam nữ thụ thụ bất thân.
3. Suy luận: Hai dòng thơ cuối của văn bản gợi cho em suy nghĩ gì?
Trả lời:
Câu thơ này thể hiện tâm trạng của Lục Vân Tiên, bày tỏ sự phản kháng và lo ngại về việc mất đi tính nhân đạo và tình thương thân thiện khi đối mặt với những khó khăn và đau khổ. Đây là một trong những câu thơ nổi tiếng trong văn học Việt Nam.
* Suy ngẫm và phản hồi
Câu 1 trang 130: Theo em, nhan đề Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga có thể hiện được nội dung bao quát của văn bản không? Vì sao?
Trả lời:
- Nhan đề Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga có thể hiện được nội dung bao quát của văn bản.
- Vì văn bản đã cho thấy nhân vật chính, hành động bao trùm của văn bản là Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga với hành động nghĩa hiệp cứu người.Qua nhan đề ấy, cũng thể hiện tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội, lòng yêu thương sẵn sàng cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn. Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy.
Câu 2 trang 130: Tóm tắt các sự việc được kể và xác định bố cục của văn bản.
Trả lời:
Lục Vân Tiên quê ở huyện Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, bức hại dân lành chàng vô cùng tức giận. Tiên nghĩ rằng, kẻ cướp ỷ thế mạnh hiếp đáp kẻ lành, quả là bọn bất nhân, chàng liền ra tay cứu giúp. Không có vũ khí, chàng đã bẻ cây làm gậy, dũng mãnh xông vào giữa bọn cướp. Kẻ cướp hung bạo, thấy chàng càng thêm dữ tợn, quyết trừng trị cho bằng được. Nào ngờ, chúng bị chàng đánh cho một trận, kẻ tử nạn, người trọng thương, bỏ chạy tán loạn. Đánh tan bọn cướp, chàng còn ân cần hỏi han người gặp nạn, mới biết rằng đó là Kiều Nguyệt Nga, một co gái đang trên đường cùng tỳ nữ trở về nhà thì gặp nạn. Nguyệt Nga cảm tạ ân công, muốn đền đáp xứng đáng nhưng Vân Tiên đều từ chối tất cả. Chàng cho rằng, đó là việc nghĩa, hành động phải làm của người quân tử, không cần phải báo đáp. Cảm ân đức ấy, lại thêm mến phục khí tiết trọng nghĩa khinh tài của Lục Vân Vân Tiên, Nguyệt Nga tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay vẽ một bức hình chàng giữ luôn bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục cuộc hành trình.
- Bố cục
+ Phần 1 (14 câu đầu): Lục Vân Tiên đánh tan bọn cướp, tiêu diệt tên cầm đầu Phong Lai.
+ Phần 2 (còn lại): Cuộc trò chuyện giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Câu 3 trang 130: Nhân vật Lục Vân Tiên hiện lên với những phẩm chất nào? Đó có phải là phẩm chất của người anh hùng không? Vì sao? Phân tích một số chi tiết miêu tả hành động, lời nói của Lục Vân Tiên để làm rõ ý kiến của em.
Trả lời:
- Lục Vân Tiên hiện lên là một chàng trai tài giỏi, trượng nghĩa, có học thức và trọng lễ giáo phong kiến.
- Đó là những phẩm chất của một người anh hùng.
- Điều đó được thể hiện qua hành động, lời nói của Vân Tiên.
- Phân tích một số chi tiết miêu tả hành động, lời nói của Lục Vân Tiên:
+ Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô: sự nhanh trí, gan dạ của Lục Vân Tiên.
+ Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ/Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân - bản lĩnh của một người quân tử, trước khi ra tay chàng đã nêu rõ lý do là vì chính nghĩa, không phải là hành vi đánh lén.
+ Trận đánh diễn ra cay cấn: bốn phía phủ vây bịt bùng vô cùng nguy hiểm đối với Lục Vân Tiên.Nhưng chàng vẫn tả xung hữu đột chẳng khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
- Lục Vân Tiên gặp và trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga
+ Khi nghe tiếng khóc ở trong xe, Lục Vân Tiên hỏi: Ai than khóc ở trong xe này?
+ Người bên trong trả lời rõ sự tình: Tôi thiệt người ngay/Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.Lục Vân Tiên ngăn không cho hai cô gái ra ngoài: Khoan khoan ngồi đó chớ ra/Nàng là phận gái ta là phận trai: giữ đúng chuẩn mực đạo đức, nam nữ thụ thụ bất thân.
+ Lục Vân Tiên hỏi thăm tên tuổi, xuất thân và lý do vì sao gặp nạn trên đường.Khi nghe Kiều Nguyệt Nga bày tỏ mong muốn Lục Vân Tiên cùng đi đến gặp cha để đền ơn, Lục Vân Tiên nghe vậy từ chối: Làm ơn há dễ trông người trả ơn… Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Câu 4 trang 130: Phân tích đặc điểm của nhân vật Kiều Nguyệt Nga (lưu ý những cử chỉ, lời nói của nàng khi đáp lời Lục Vân Tiên).
Trả lời:
Lời nói, cử chỉ
- Lời giới thiệu rất đầy đủ, chân thành, không có chút khoa trương hay kênh kiệu, đáp lại đầy đủ những lời thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên à cô tiểu thư quyền quý mà còn là một cô gái nhã nhặn, có học thức.
- Nàng xưng “tiện thiếp”, gọi “quân tử’’ để làm nổi bật sự thông minh, hành xử có thước mực của nàng trong lời ăn tiếng nói.
- Nàng vẫn định xuống xe để trực tiếp “cúi đầu trăm lạy” để tạ ơn ân nhân cứu mạng Lục Vân Tiên. à Thật tâm, thật dạ muốn được cảm tạ ân công
- Lời đối đáp nhẹ nhàng, dịu dàng, tỏ lòng “ghi ơn tạc dạ” hành động nhân nghĩa của Lục Vân tiên
- Xin chàng cùng nàng về gặp cha mẹ, tự nguyện gắn bó cuộc đời à trân trọng, đền ơn đáp nghĩa đối với ân nhân đã giúp đỡ mình, nguyện lấy thanh xuân để đền đáp công ơn
- Nàng về một bức tranh hình Lục Vân Tiên luôn mang theo bên mình à thuỷ chung, son sắt
Câu 5 trang 130: Xác định chủ đề của văn bản và phân tích các căn cứ giúp em xác định chủ đề đó.
Trả lời:
-Chủ đề: khát vọng công lý
-Bởi vì, qua văn bản ta thấy Lục Vân Tiên là người thấy hoạn nạn sẵn sàng cứu giúp vô tư đem lại điều tốt đẹp cho mọi người; người anh hùng hành động vì chính nghĩa, vì lẽ phải, vì lẽ công bằng. Luôn bênh vực, che chở cho những người yếu đuối; dám đứng lên bảo vệ lẽ công bằng, quyền lợi chính đáng của mọi người, của tập thể, của một cá nhân bị xâm phạm...; đấu tranh chống lại những cái xấu xa, tội lỗi. Hai câu thơ cuối bài tác giả thể hiện một quan niệm đạo lý người anh hùng là người sẵn sàng làm việc nghĩa một cách vô tư, không tính toán làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên.
Câu 6 trang 130: Tác giả muốn gửi gắm thông điệp gì qua văn bản? Ngày nay, thông điệp ấy có còn giá trị không? Vì sao?
Trả lời:
Thông điệp tác giả muốn gửi gắm đó là thông qua hai nhân vật trong truyện tác giả muốn nói đến những phẩm chất cao đẹp của con người, hướng tới lẽ công bằng, lên án cái xấu và cái ác trong xã hội.
=> Thông điệp trên còn giá trị vì những thông điệp ấy đều hướng con người tới những giá trị tốt đẹp, dạy con người những điều hay lẽ phải, đề cao giá trị của việc trượng nghĩa
Câu 7 trang 130: Tìm hiểu sự nghiệp, quá trình sáng tác thơ văn của tác giả Nguyễn Đình Chiểu và chỉ ra một số điểm tương đồng, khác biệt (nếu có) giữa:
a. Hoàn cảnh, mục đích sáng tác Truyện Lục Vân Tiên và các tác phẩm khác của ông như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,...
b. Tình cảm, cảm xúc của tác giả khi kể lại hành động Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên và khi nhắc đến “trang dẹp loạn” trong bài thơ Chạy giặc (xem thêm Ngữ văn 8, tập hai, bộ sách Chân trời sáng tạo).
Trả lời:
a. Hoàn cảnh, mục đích sáng tác:
- Tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên:
+ Hoàn cảnh: Truyện Lục Vân Tiên là một truyện thơ nôm của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ 19.
+ Mục đích: Tác phẩm thể hiện về luân lý và cốt bàn đạo đức, khuyên người ta về những nguyên tắc sống lành mạnh. Tác giả muốn truyền đạt thông điệp về việc nên làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo.
- Tác phẩm Chạy giặc:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Hoàn cảnh lịch sử: Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên trên bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, nhưng đến đây, chúng gặp phải sự kháng cự của nhân dân nên chuyển qua tiến đánh Gia Định (Sài Gòn).Hoàn cảnh riêng: Tác phẩm Chạy giặc được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác vào khoảng thời gian sau khi giặc Pháp tấn công thành Gia Định (tháng 2/ năm 1859). Nhà thơ chứng kiến cảnh chạy loạn, li tán của nhân dân nên đã viết bài thơ này.
+ Mục đích: Trước cảnh quê hương bị tàn phá, nhà tan nước mất, nhân dân hốt hoảng, hoang mang trong tay giặc, mặc dù mù lòa không nhìn thấy gì nhưng với tấm lòng xót xa, buồn đau vô hạn, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc” để ghi lại tâm trạng của mình.
- Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:
+ Hoàn cảnh: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công v.v… Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (ngày 16 tháng 12 năm 1861), những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng 20 nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.
+ Mục đích sáng tác:Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
b. Tình cảm, cảm xúc của tác giả khi kể lại hành động Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên và khi nhắc đến “trang dẹp loạn” trong bài thơ Chạy giặc:
- Trong bài Truyện Lục Vân Tiên: thái độ bất bình trước hành động của tên cướp, đồng tình ủng hộ trước hành động nghĩa dũng của Lục Vân Tiên.
- Trong bài Chạy giặc: Tác giả bày tỏ sự lo lắng, thương xót cho người dân, cho vận mệnh đất nước, đồng thời cũng thể hiện sự thất vọng, sự trông đợi, sự chất vấn… đối với những “trang dẹp loạn”, những người có khả năng và trách nhiệm trước thời cuộc.