Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Soạn Ngữ văn 9, bài 4: Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - Sách Chân trời sáng tạo

Thứ tư - 19/06/2024 08:30
Soạn Ngữ văn 9 Sách Chân trời sáng tạo, bài 4: Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - Trang 114, ...
* Hướng dẫn phân tích kiểu văn bản
Văn bản: Con trâu
Câu 1 trang 117: Tính sáng tạo của văn bản truyện so với truyện gốc được thể hiện ở những điểm nào? (Đọc lại nội dung tóm tắt truyện được phỏng theo ở cước chú trang 116 để xác định những biểu hiện của sự sáng tạo đó.)
Trả lời:
- Trong Sự tích con trâu:
+ Ngọc Hoàng sai một vị thần mang hai túi hạt giống, một túi đựng hạt giống ngũ cốc, một túi đựng hạt giống cỏ.
+ Sau khi phạm sai lầm, không tự nhận tội mà phải để nhân dân kêu than với nhà trời.
- Trong văn bản Con trâu:
+ Ngọc Hoàng sai một vị thần gieo mười hạt giống và một nắm rễ.
+ Sau khi mắc sai lầm, vị thần tự nhận lỗi lầm, và muốn chuộc tội.

Câu 2 trang 117: Chỉ ra một số chi tiết cho thấy văn bản truyện kể trên có kết hợp khéo léo các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong khi kể chuyện.
Trả lời:
- Chi tiết miêu tả thể hiện qua việc miêu tả vẻ bề ngoài của thiên thần, khung cảnh thiên nhiên đồi núi khô nẻ trước khi gieo. Vì thế, vị thiên thần ở đây đã ngay lập tức mong muốn giải hạt như một vị cứu thế. (biểu cẩm)
- Cùng với đó thấy được yếu tố miêu tả qua việc rễ cỏ đâm chồi nảy lọc, mọc um tùm.

Câu 3 trang 117: Văn bản trên đã đáp ứng những yêu cầu về nội dung đối với các phần mở đầu truyện, diễn biến truyện, kết thúc truyện như thế nào?
Trả lời:
- Văn bản trên đã đáp ứng yêu cầu về phần mở đầu, diễn biến, kết thúc vì:
+ Mở đầu văn bản đã có lời giới thiệu về lí do có câu chuyện “Con trâu”
+ Diễn biến truyện có các sự kiện chính xảy ra theo logic hợp lí, đặt nhân vật vào tình huống khó khăn đó là chọn lựa giữa việc gieo hạt ngũ cốc hay là rễ cỏ. Trong đó có sử dụng các yếu tố miêu tả về thiên nhiên, biểu cảm.
+ Kết thúc: Vì nhân vật đã gây ra những sai lầm để lại hậu quả nghiêm trọng nên nhân vật cần phải giải quyết hậu quả ấy bằng cách đó là nhân vật xin tạ lỗi và mong Ngọc Hoàng nương tình. Để giải quyết hậu hoạ mình gây ra, vị thần đã biến thành con trâu và ăn hết đám cỏ đó như một việc gieo nhân nào gặp quả ấy.

Câu 4 trang 117: Qua văn bản trên, em rút ra được những lưu ý gì khi viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện kể đã đọc?
Trả lời:
Em rút ra được những lưu ý gì khi viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện kể: Khi kể chuyện có nhân vật, cốt truyện, bối cảnh phù hợp; Thể hiện được sự sáng tạo của người viết về nội dung truyện đã đọc. Kết hợp sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm trong khi kể chuyện.

Đề bài: Viết một truyện kể sáng tạo với đề tài tự chọn, phỏng theo một truyện đã đọc (khoảng 1000 chữ) có sử dụng các yếu tố miêu tả, biểu cảm
Bài làm 1:
Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.

Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.

Năm ấy, giặc ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con”, người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: “Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc”. Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.

Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ “Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!”, rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.

Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.

Bài làm 2
Cô bé Lọ Lem và chiếc xe đạp huyền bí
Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nhỏ bình yên ven biển, có một cô bé tên là Lọ Lem. Lọ Lem mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống cùng bà dì ghẻ và hai người chị em cùng cha khác mẹ. Hai người chị em của Lọ Lem xinh đẹp, kiêu hãnh, luôn ganh tị và đối xử tàn tệ với cô. Lọ Lem phải làm mọi việc nhà từ sáng sớm đến tối mịt, không có thời gian vui chơi hay học hành như những đứa trẻ khác.

Vào một buổi sáng mùa hè trong trẻo, Lọ Lem đang miệt mài giặt giũ bên bờ suối thì bất ngờ nghe thấy tiếng chuông reo vang. Nhìn theo âm thanh, cô bé thấy một chiếc xe đạp màu bạc lấp lánh xuất hiện giữa khu rừng. Chiếc xe đạp có khung bằng kim loại sáng bóng, bánh xe bằng cao su mềm mại, và những chiếc nan hoa lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Lọ Lem chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe đạp nào đẹp đến vậy.

Bị thu hút bởi vẻ đẹp lộng lẫy, Lọ Lem tò mò tiến đến chiếc xe đạp. Ngay khi cô bé đặt tay lên tay lái, một luồng ánh sáng kỳ diệu bao trùm lấy Lọ Lem và chiếc xe đạp. Khi ánh sáng tan biến, Lọ Lem bỗng nhiên được biến hóa thành một cô gái xinh đẹp rạng rỡ, mặc trên mình bộ váy màu xanh biếc lấp lánh, mái tóc đen dài uốn xoăn bồng bềnh.

Chiếc xe đạp cũng thay đổi ngoại hình, trở thành một cỗ xe ngựa lộng lẫy, được kéo bởi bốn chú ngựa trắng tinh khôi. Lọ Lem ngỡ ngàng nhìn ngắm sự biến hóa kỳ diệu này, không thể tin vào mắt mình. Bỗng nhiên, một giọng nói nhẹ nhàng vang vọng từ trong khu rừng: "Lọ Lem, con hãy nhanh chóng đến dự vũ hội hoàng gia. Hãy tận hưởng khoảnh khắc tuyệt vời này, con xứng đáng được hạnh phúc."

Lọ Lem vui mừng khôn xiết, cô bé vội vã leo lên cỗ xe ngựa và ra lệnh cho những chú ngựa đưa mình đến cung điện. Vừa đến cổng cung điện, mọi người đều choáng ngợp trước vẻ đẹp lộng lẫy của Lọ Lem và cỗ xe ngựa huyền bí. Hoàng tử, khi nhìn thấy Lọ Lem, đã ngay lập tức bị thu hút bởi vẻ đẹp và sự thanh tao của cô bé. Hoàng tử mời Lọ Lem vào dự vũ hội, và họ đã có những giây phút vui vẻ, hạnh phúc bên nhau.

Tuy nhiên, Lọ Lem biết rằng phép thuật sẽ chỉ kéo dài đến nửa đêm. Khi tiếng chuông đồng hồ điểm 12 giờ, Lọ Lem vội vã rời khỏi vũ hội, bỏ lại một chiếc dép thủy tinh nhỏ xinh. Hoàng tử quyết tâm tìm kiếm người con gái bí ẩn đã đánh cắp trái tim mình, và anh đã đi khắp nơi để thử chiếc giày thủy tinh cho tất cả những người phụ nữ trong vương quốc.

Cuối cùng, hoàng tử đến nhà của Lọ Lem, nơi hai người chị em của cô bé đang cố gắng nhồi nhét đôi chân to lớn của họ vào chiếc dép thủy tinh. Lọ Lem xuất hiện, và khi hoàng tử thử chiếc dép cho cô bé, nó vừa vặn hoàn hảo. Lọ Lem mỉm cười hạnh phúc, và phép thuật biến mất, trả lại cho cô bé hình ảnh giản dị thường ngày.

Hoàng tử nhận ra Lọ Lem chính là cô gái bí ẩn mình đã tìm kiếm bấy lâu nay. Anh vô cùng vui mừng và cầu hôn Lọ Lem. Họ đã tổ chức một đám cưới lộng lẫy, và họ sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.

Câu chuyện này là phiên bản sáng tạo dựa trên truyện cổ tích "Cô bé Lọ Lem" quen thuộc, với sự thay đổi về bối cảnh và chi tiết để tạo nên sự mới mẻ và thu hút. Chiếc xe đạp huyền bí đóng vai trò như một yếu tố phép thuật giúp Lọ Lem biến hóa và đến dự vũ hội, mang đến cho cô bé một đêm diệu kỳ và hạnh phúc. Câu chuyện cũng ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn và sự lương thiện của Lọ Lem, giúp cô bé xứng đáng được hưởng hạnh phúc bên hoàng tử.

  Ý kiến bạn đọc

DANH MỤC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây