Nhuộm răng đen là một trong những phong tục xa xưa của nhiều dân tộc ở Đông Á, như Việt Nam, Nhật Bản, Malaysia và miền Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam xưa, răng đen là một yếu tố của nhan sắc đàn bà con gái, người nào để răng trắng là người bất chính, bị thiên hạ chê cười. Như câu “Răng trắng như răng chó”, “Răng trắng như răng Ngô” đều có hàm ý chế giễu, chê bai. Việc nhuộm đen răng là một phong tục phổ biến có từ thời Hùng Vương, kéo dài cho đến thế kỷ 20. Ngoài người Kinh, các dân tộc khác như Thái, Si La, Tày, Dao đều có tục này.
Trong bài hịch của vua Quang Trung khi kéo quân ra Bắc đánh giặc Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng đen:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn...
Tục nhuộm răng đen chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Mọi người khi lên mười ba, mười bốn tuổi đều thích nhuộm răng. Muốn nhuộm răng đen phải trải qua nhiều giai đoạn, kéo dài từ một đến hai tuần bằng những thứ thuốc gia truyền bao gồm: Bột nhựa cánh kiến, nước cốt chanh, phèn đen, nhựa của gáo dừa.
Người ta chỉ nhuộm răng sau khi đã thay toàn bộ răng sữa, thời gian đó là thích hợp nhất để nhuộm vì lúc ấy răng còn non, độ thấm của thuốc nhuộm dễ gắn chặt vào men và ngà răng hơn. Người bình dân thường nhuộm theo phương pháp đơn giản, nhưng người giàu có hay quan lại nhuộm răng theo nhiều lối cầu kỳ với những phương pháp khác nhau.
Khởi đầu, miệng và răng phải được làm vệ sinh thật sạch cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được.
Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh để lớp men răng “mềm” đi, axít của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm vì răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, răng lung lay như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó 7–10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Người ta trét lên lá dừa, lá cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới.
Đến sáng sẽ gỡ ra lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau đó phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua, để thải hết chất thuốc còn sót lại. Người nhuộm răng phải ngậm miệng suốt đêm, tránh để miếng thuốc nhuộm bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt chửng thức ăn chứ không được nhai. Khi thấy răng có màu đỏ già (màu của cánh kiến) thì việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày.
Phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa được đốt hay nấu chảy, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng gọi là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hạt mãng cầu.
Nếu được bảo vệ cẩn thận răng nhuộm có thể giữ màu đen bóng 20, 30 năm. Muốn cho hàm răng lúc nào cũng đen nhánh thì độ một năm lại nhuộm bồi thêm một lớp. Răng không được chăm sóc sẽ bị phai màu, loang lổ gọi là “răng cải mả”, trông không đẹp.
Những câu ca dao cho thấy giá trị của răng đen như:
“Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng răng đen”,
hay
“Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hột huyền kém thua”.
hay
“Con gà tốt mã về lông,
Răng đen về thuốc, rượu nồng về men”
hay
“Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, miệng người răng đen.”
hay
“Răng đen ai nhuộm cho mình
Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say”
Cho đến năm 1948, khi Hoàng Cầm viết bài thơ Bên kia sông Đuống, tục nhuộm răng đen vẫn còn. Bài thơ có hai câu miêu tả người phụ nữ:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
Tục nhuộm răng là một nét văn hóa để phân biệt với các tộc người khác. Hầu như tất cả người dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng.
Khoảng vào năm 1862, khi nền văn minh Tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, và nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, nhiều phụ nữ đã để răng trắng hay cạo hàm răng đen được nhuộm từ thuở mới thay răng để trở thành người phụ nữ mới nhằm tham gia vào công cuộc cải cách xã hội, phong trào đòi nữ quyền, giải phóng, phong trào này phát triển rầm rộ trong thời đại canh tân. Thuở ấy trong xã hội có hai phái kình chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo Tây, làm me Tây...; còn nhóm kia thì cho rằng tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Thời đó, người ta chỉ đánh giá bề ngoài mà không chú trọng nhân cách, tư tưởng ở bên trong. Đây là giai đoạn đánh dấu sự suy tàn của tục nhuộm đen răng ở Việt Nam.