NÂNG CAO KẾT QUẢ HỌC TẬP LÍ THUYẾT
MÔN: GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH
BẰNG PHƯƠNG PHÁP “THẢO LUẬN NHÓM”
---------&----------
I . LÝ DO, MỤC ĐÍCH, PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục quốc phòng - An ninh ( GDQP-AN) là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, việc giáo dục phồ cập và tăng cường QPAN là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, phải được chỉ đạo , tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến từng địa phương, các hình thức phù hợp với từng đối tượng. Đăc biệt chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lịch sử truyền thống của Đảng và dân tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật, trong đó xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ của mọi công dân ( Trích chỉ thị 12/CT/TW của Bộ chính trị - BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/2007).
GDQP-AN là một môn học bao gồm nhiều kiến thức về khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên lẫn khoa học kĩ thuật quân sự. Là một môn học không chỉ trang bị những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng, tư duy về QPAN và kiến thức quân sự cần thiết mà còn rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách sống con người CNXH. Tuy nhiên, đây là một môn học nằm trong nhóm môn học có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 60% chương trình môn học. Chính vì lí do đó, cùng với những nhận thức non nớt của học sinh, các em thường dành nhiều thời gian cho các môn học mà các em cho là quan trọng hơn, có thể thi Đại học, cao đẳng… ( Vd: Toán, lí, hóa, anh văn….) mà xem nhẹ môn học này, các em thường không học bài củ trước khi đến lớp hoặc ít khi đọc trước bài mới, dẫn đến kết quả học tập chưa cao và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của môn học. Trãi qua gần 6 năm công tác và giảng dạy môn học này, bản thân tôi cũng như các đồng nghiệp đã có nhiều cố gắng luôn tìm cách đổi mới về phương pháp giảng dạy để cải thiện nhằm nâng cao chất lượng và kết quả học tập cho học sinh như: ứng dụng Công nghệ thông tin đưa phim ảnh vào giảng dạy, sử dụng giáo án điện tử, viết bài thu hoạch cá nhân, thảo luận nhóm….Trong các phương pháp kể trên, qua một thời gian dài áp dụng tôi nhận thấy rằng phương pháp “Thảo luận nhóm” không chỉ mang lại hiệu quả cao trong học tập, giúp các em có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp mà còn giúp các em phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm việc của cá nhân ….đồng thời giảm bớt thời gian để học bài củ ở nhà. Từ đó, giúp các em có hứng thú với môn học, mang lại kết quả giáo dục cao hơn. Trên cơ sở đó , tôi đưa ra một vài kinh nghiệm sử dụng phương pháp “Thảo luận nhóm” để giảng dạy nội dung các bài học lí thuyết môn GDQP-AN.
2. Mục đích nghiên cứu
“Thảo luận nhóm” là một hình thức học tập mang tính hợp tác nhằm nâng cao chất lượng của học sinh – học sinh đóng vai trò chủ động, giảm bớt đi phương pháp học tập trước đây, đó là: phấn trắng – bảng đen; thầy đọc – trò chép; thầy giảng – trò nghe….giúp cho người học chiếm lĩnh tri thức chứ không phải lĩnh hội tri thức. Học sinh có cơ hội giao lưu, trao đổi, thảo luận với nhau để đạt được kết quả cao trong học tập về nhiều mặt. Theo cách học này, học sinh được tạo cơ hội tự dặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan điềm của cá nhân và cùng hợp tác trao đổi kiến thức.Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả của việc học nhóm, giáo viên là đóng vai trò rất quan trọng. Giáo viên phải cung cấp nền tảng kiến thức cho học sinh, phải khơi gợi được hứng thú của học sinh bằng cách chọn những chủ đề tương ứng với trình độ của các em, đưa ra những câu hỏi hoặc những vấn đề để học sinh tư duy một cách sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác phải được sắp xếp để đảm bảo các thành viên trong nhóm đều phải tham gia một cách tích cực.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
a. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh trường THPT
- Phạm vi nghiên cứu: Nâng cao kết quả học tập lí thuyết môn GDQPAN bằng phương pháp “Thảo luận nhóm”
b. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp giúp học sinh làm quen với phương pháp học nhóm.
- Phương pháp chọn “thủ lĩnh” để điều hành và quản lí hoạt động của nhóm.
- Phương pháp để các thành viên trong nhóm đều phải tham gia hoạt động chung của nhóm.
II. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN GDQPAN TẠI TRƯỜNG THPT
1. Thuận lợi:
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên giảng dạy môn GDQPAN của nhà trường đều đã qua các lớp đào tạo ngắn hạn. Được sự quan tâm của lãnh đạo Sở Giáo dục, hàng năm, đều tổ chức các khóa học bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên.
- Các giáo viên đều đã có những nhận thức tích cực, luôn muốn tìm tòi học hỏi để làm sao giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, trong thời gian vừa qua các giáo viên giảng dạy nói chung và giáo viên giảng dạy bô môn GDQPAN nói riêng đã áp dụng rất nhiều phương pháp mới vào giảng dạy để nâng cao hứng thú và kết quả học tập cho học sinh. Cụ thể như: Ứng dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy, thiết kế bài giảng bằng giáo án điện tử, phương pháp trình chiếu phim ảnh sống động, kết hợp nhuần nhuyễn và sử dụng hiệu quả các thiết bị vào giảng day, kết hợp phương pháp truyền thống với ứng dụng CNTT, hướng dẫn cho học sinh “thảo luận nhóm” một cách tích cực mang đã lại kết quả khả quan.
* Đối với học sinh:
- Đa số học sinh đều có thái độ tích cực, tham gia thảo luận nhóm đã mang lại hiệu quả cao trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
- Những học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua hoạt động thảo luận nhóm, các em đã mạnh dạn hơn khi tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, hòa đồng và đoàn kết hơn với các bạn trong, phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm việc của cá nhân….
2. Khó khăn:
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên chưa gây được hứng thú cho học sinh khi bắt đầu tiết học mới, chưa có phần dẫn dắt vào bài hoặc chưa gây được sự tập trung chú ý bài học của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.
- Giáo viên chỉ nêu ra câu hỏi mà chưa định hướng cho học sinh cách trả lời câu hỏi như thế nào.
- Khi giáo viên đặt câu hỏi thì phần lớn các em học sinh khá giỏi dơ tay trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng yếu kém. Cho nên học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động. Từ đó, làm cho các em càng thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán môn học.
* Đối với học sinh:
- Học sinh còn lười và chưa có sự say mê đối với môn học, một số bộ phận học sinh không học bài củ và đọc bài mới trước khi đến lớp, trên lớp học thì thiếu tập trung không chú ý, không có tinh thần phát biểu xây dựng bài.
- Học sinh chỉ có thể trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản qua việc nhìn và đọc trong sách giáo khoa chưa có sự độc lập về tư duy. Đối với những câu hỏi mang tính suy luận, giải thích, phân tích… thì học sinh trả lời chung chung chưa sát với nội dung yêu cầu của câu hỏi.
* Điều tra cụ thể:
Bản thân đảm nhận dạy môn học GDQPAN cho học sinh cả 3 khối lớp 10,11,12. Qua quá trình công tác đến nay đã gần 6 năm tôi đã không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tìm ra các phương pháp mới để giúp các em học tốt hơn và rút ra kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy. Việc điều tra thông qua các câu hỏi khảo sát nhận thức và câu hỏi kiểm tra 15p hoặc 45p. Kết quả điều tra như sau:
+ Điều tra hứng thú học tập của các em đối với môn GDQPAN:
Khối lớp | Lớp | SLHS | Rất thích | Thích | Hơi thích | Bình thường | Không thích |
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % |
Khối 10 | 10B7 | 39 | 3 | 7.7 | 7 | 18 | 14 | 35.8 | 12 | 30.7 | 3 | 7.8 |
Khối 11 | 11C3 | 43 | 4 | 9.3 | 6 | 14 | 15 | 34.8 | 16 | 37.2 | 2 | 4.7 |
Khối 12 | 12A6 | 42 | 4 | 9.5 | 6 | 14.3 | 17 | 40.4 | 13 | 31 | 2 | 4.8 |
+ Điều tra mức độ học bài củ trước khi đến lớp của học sinh:
Khối lớp | Lớp | SLHS | Học kĩ bài | Học thuộc bài | Có học bài | Có đọc qua | Không học |
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % |
Khối 10 | 10B7 | 39 | 5 | 12.8 | 7 | 18 | 8 | 20.5 | 10 | 25.6 | 9 | 23.1 |
Khối 11 | 11C3 | 43 | 6 | 14 | 5 | 11.6 | 10 | 23.3 | 12 | 28 | 10 | 23.1 |
Khối 12 | 12A6 | 42 | 3 | 7.1 | 5 | 11.6 | 6 | 14.3 | 15 | 35.7 | 13 | 31.3 |
+ Điều tra về kết quả học tập:
Khối lớp | Lớp | SLHS | Giỏi | Khá | Trung bình | Yếu |
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % |
Khối 10 | 10B7 | 39 | 8 | 20.5 | 17 | 43.6 | 11 | 28.2 | 3 | 7.7 |
Khối 11 | 11C3 | 43 | 9 | 20.9 | 18 | 41.9 | 12 | 27.9 | 4 | 9.3 |
Khối 12 | 12A6 | 42 | 4 | 9.5 | 22 | 52.4 | 15 | 35.7 | 3 | 2.4 |
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Từ những điều tra trên để đánh giá nhận thức và kết quả học tập của các em, tôi đã tiến hành một số phương pháp nhằm nâng cao hứng thú và kết quả học tập như: Ứng dụng CNTT đưa hình ảnh vào bài giảng, Phương pháp trình chiếu, viết bài thu hoạch, thảo luận nhóm … Trong các phương pháp nêu trên tôi nhận thấy phương pháp “ Thảo luận nhóm” mang lại hiệu quả giáo dục toàn diện hơn so với các phương pháp khác. Với những câu hỏi khó, những tình huống chưa giải quyết, cá nhân các em có thể đưa ra thảo luận trong nhóm để thống nhất ý kiến. Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất sự đổi mới trong phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Giúp cho học sinh mở rộng kiến thức, phát triển được tư duy khoa học,phát triển kĩ năng nói, giao tiếp tranh luận... Tuy nhiên khi tiến hành phương pháp này còn gặp phải một số hạn chế như sau:
* Do học sinh chưa quen với cách học mới, các em thụ động, thiếu tự tin, không dám nêu ra quan điểm của mình và đây chính là một trở ngại lớn nhất khi đua phương pháp này vào giảng dạy.
* Khi phân chia nhóm để thảo luận. Giáo viên phải phân chia như thế nào cho hợp lí, chọn cử ai là thủ lĩnh nhóm để nhóm học tập có hiệu quả.
* Làm cách nào để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có tinh thần trách nhiệm trong công việc, tránh trường hợp ỷ lại vào nhóm.
* Để áp dụng tốt phương pháp này ta cần giải quyết được 3 mặt hạn chế nêu trên bằng những phương pháp sau:
Thứ nhất: Để giúp học sinh làm quen với cách học mới, giúp các em chủ động, tự tin, dám nêu ra quan điểm của mình chúng ta cần phải trải qua một thời gian để các em thích ứng. Trong những tiết học đầu tiên chúng ta không nên áp dụng phương pháp này ngay, vì làm như thế các em sẽ bỡ ngỡ dẫn đến nhiều trở ngại trong quá trình học tập, không thu được kết quả như mong muốn. Chúng ta có thể làm theo cách sau để tạo cho các em thói quen độc lập, tư duy và làm bài theo hiểu biết của cá nhân.
Ví dụ: Ở khối 10, ngay bài học đầu tiên
Bài 1: Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Phần I – Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam
Giáo viên nêu câu hỏi: Bằng những kiến thức lịch sữ đã học, em hãy lập dàn ý về
“Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam”. Cho các em đọc bài và yêu cầu mỗi em lập dàn ý trong thời gian do giáo viên quy định. Giáo viên quan sát hoạt động của học sinh, nhận xét và kiểm tra bài làm của một số em. Sau đó giúp các em hệ thống lại nội dung của bài.
Hoặc cho các em viết bài thu hoạch:
Ví dụ: Ở Khối lớp 11
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biện giới quốc gia
Phần III: Bảo vệ Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam, mục 2)c.Trách nhiệm của công dân: Trong phần này giáo viên đặt câu hỏi như sau: Là một công dân của nước CHXHCN Việt Nam bản thân em phải làm gì để xây dựng và quản li, bảo vệ biên giới quốc gia ( GV định hướng cho các em viết bài thu hoạch)
* Qua những cách này chúng ta đã dần giúp cho các em chủ động, tự tin làm quen với cách học mới và đã dần loại bỏ đi một trở ngại lớn khi bắt đầu tiến hành phương pháp “Thảo luận nhóm”
Thứ hai: Là khi phân chia nhóm để thảo luận. Giáo viên phải phân chia như thế nào cho hợp lí, chọn cử ai là thủ lĩnh nhóm để nhóm học tập có hiệu quả.
Theo cá nhân tôi chúng ta nên sử dụng phương pháp sau để chọn ra thủ lĩnh nhóm đạt yêu cầu: Chúng ta chia thành 4 nhóm theo 4 tổ của lớp, mỗi tổ có 3 bàn học, giáo viên đưa ra một câu hỏi về kiến thức môn học hoặc kiến thức xã hội, yêu cầu mỗi bàn học thảo luận để tìm ra đáp án, giáo viên cho thời gian đủ để quan sát hoạt động của các em. Từ hoạt động này chúng ta sẽ chọn ra một em nỗi trội trong bàn có khả năng lãnh đạo, thuyết trình. Như thế mỗi bàn chúng ta sẽ chọn được một em học sinh. Mỗi tổ ta sẽ có 3 học sinh để tiếp tục lựa chọn nhóm trưởng bằng cách vừa nêu trên. Tiếp tục cho 3 em trong tổ vừa chọn ngồi lại cùng một bàn và giáo viên đặt câu hỏi để các em trao đổi thảo luận trả lời đáp án. Trong 3 em này chúng ta sẽ chọn một em được nhóm bầu lên để thuyết trình nội dung hoặc em nào có tinh thần xung phong để bầu làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ điều hành. Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.
* Đây là một khâu quan trọng để thay đổi phương pháp trong dạy và học. Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong nhóm, là những viên gạch đầu tiên để thực hiện thành công phương pháp “Thảo luận nhóm”.
Thứ ba: Làm cách nào để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có tinh thần trách nhiệm trong công việc, tránh trường hợp ỷ lại vào nhóm.
Để làm tốt điều này, cần có sự phối hợp tốt giữa trưởng nhóm, cán sự lớp và giáo viên. Đánh giá trực tiếp vào kết quả, ý thức của từng nhóm là điều thực sự cần trong giai đoạn đầu. Ở đây ta áp dụng chính sách thưởng phạt trong thảo luận:
Chúng ta thưởng cho những học sinh tham gia sôi nổi, nhiệt tình, có ý thức cao trong hoạt động của nhóm và trong quá trình học tập bằng cách cộng điểm ưu tiên. Phạt những em mất trật tự, không tham gia thảo luận, làm việc hoặc nói chuyện riêng…. bằng cách nhắc nhở, cảnh cáo, viết kiểm điểm hoặc trừ điểm….
* Dựa vào phương pháp trên tôi ra câu hỏi và hướng dẫn để cho học sinh thảo luận nhóm như sau:
Ví dụ: Ở lớp 10
Bài 5: Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai
Phần II. Tác hại của thiên tai và một số biện pháp phòng tránh
Trong tiết học này tôi nêu ra mục đích, yêu cầu của tiết học và định hướng cho các em tìm hiểu các loại hình thiên tai, tác hại, nguyên nhân gây ra thiên tai và đưa ra các biện pháp phòng tránh thiên tai.
Câu hỏi: Các em hãy kể tên một số loại hình thiên tai thường gặp trên thế giới nói chung và Việt Nan nói riêng, nguyên nhân gây ra thiên tai, tác hại của thiên tai và một số biện pháp phòng tránh?
Tiến hành hoạt động: Cho mỗi em tự nghiên cứu nội dung trong SGK kết hợp với hiểu biết của cá nhân yêu cầu các em lập dàn ý. Sau đó chia lớp thành 4 nhóm yêu cầu các em trao đổi, thảo luận, thống nhất ý kiến và cử một thành viên trong nhóm đứng lên trình bày lần lượt từng nhóm. Giáo viên nhận xét, đánh giá quả bài làm của từng nhóm. (trong các hoạt động này giáo viên phân chia thời gian cho hợp lí).
Ví dụ: Ở lớp 11
Bài 2: Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh
Phần II, mục 3: Trách nhiệm của học sinh.
Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy trình bày trách nhiệm của học sinh trong việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự.
Giáo viên định hướng cho các em về trách nhiệm của bản thân đối với việc thực hiện luận NVQS. Cho các em trao đổi thảo luận và trình bày kết quả.
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.
GV nêu câu hỏi: Là công dân của nước CHXHCN Việt Nam bản thân em có trách nhiệm như thế nào trong xây dựng và quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia. Cho các em thảo luận rồi trình bày.
Ví dụ: Ở lớp 12
Bài 2: Một số hiểu biết về nền Quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Giáo viên cho các em thảo luận về những biện pháp chủ yếu để xây dựng nền QPTD-ANND vững mạnh trong giai đoạn hiện nay và trách nhiệm của học sinh trong xây dựng nền QPTD-ANND.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
Mặc dù thời gian thời gian một tiết dạy còn hạn chế, nhưng tôi cũng đã mạnh dạn vận dụng phương pháp này vào các tiết dạy và đạt được những kết quả khả quan. Phương pháp này khi áp dụng vào một số nội dung lí thuyết của môn học phù với với chương trình sách giáo khoa và đảm bảo phương pháp học mới. Học sinh có hứng thú học tập, tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức và phát triển được nhiều kĩ năng. Từ đó, không khí học tập trở nên sôi nỗi và nhẹ nhàng, học sinh thích thú với môn học so với phương pháp truyền thống trước đây.
Qua phương pháp học sinh tự nghiên cứu, sau đó trao đổi thảo luận đã giúp các em phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm vui, hứng thú trong học tập.
Khi một người nhóm lên trình bày các em còn lại chú ý lắng nghe xem bạn mình trình bày có đầy đủ ý không, hoặc khi nhóm khác lên trình bày các em cũng chú ý lắng nghe xem kết quả có giống với kết quả của nhóm mình hay không? Chính việc lắng nghe đó đã giúp các em có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp học một cách dễ dàng, không cần phải dành nhiều thời gian học thuộc lòng bài ở nhà. Từ đó, giảm bớt đi áp lực của môn học và gây hứng thú cho học sinh dần dần làm cho các em yêu thích môn học hơn.
Kết quả cụ thể: (khảo sát sau khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm)
+ Về hứng thú học tập sau khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm:
Khối lớp | Lớp | SLHS | Rất thích | Thích | Hơi thích | Bình thường | Không thích |
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % |
Khối 10 | 10B7 | 39 | 6 | 15.4 | 9 | 23 | 17 | 43.5 | 6 | 15.4 | 1 | 2.7 |
Khối 11 | 11C3 | 43 | 5 | 11.7 | 10 | 23.3 | 15 | 34.8 | 13 | 30.2 | 0 | 0 |
Khối 12 | 12A6 | 42 | 5 | 12 | 9 | 21.5 | 17 | 40.5 | 11 | 26 | 0 | 0 |
+ Điều tra về kết quả học tập:
Khối lớp | Lớp | SLHS | Giỏi | Khá | Trung bình | Yếu |
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % |
Khối 10 | 10B7 | 39 | 10 | 25.6 | 19 | 48.8 | 9 | 23 | 1 | 2.6 |
Khối 11 | 11C3 | 43 | 10 | 23.3 | 20 | 46.5 | 13 | 30.2 | 0 | 0 |
Khối 12 | 12A6 | 42 | 6 | 14.3 | 24 | 57.1 | 12 | 28.6 | 0 | 0 |
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sau một thời gian áp dụng phương pháp này vào giảng dạy, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả trước hết giáo viên phải đưa ra những yêu cầu rõ ràng về câu hỏi cần thảo luận.
- Nên quy định cụ thể thời gian thảo luận.
- Mỗi nhóm báo cáo xong giáo viên cần có nhận xét đánh giá (khen ngợi, nhắc nhở)
- Giáo viên cần chú ý theo dõi sự hoạt động của các nhóm
- Mỗi nhóm sẽ cử một nhóm trưởng chỉ đạo các bạn trong nhóm hoạt động và một thư ký ghi ý kiến của các bạn trong nhóm
- Giáo viên cần nghiên cứu kĩ giáo án, sách giáo khoa và các tài liệu có liên quan, chuẩn bị các câu hỏi phù hợp với đối tượng và trình độ của các em.
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên cần nêu mục đích, yêu cầu của tiết học; mục tiêu của bài học. Sau đó phổ biến nội dung và phân bố thời gian hợp lí và hướng dẫn học sinh thực hiện.
- Giáo viên cần tạo cơ hội cho tất cả các học sinh trả lời, thảo luận nhóm, không gây căng thẳng hoặc tạo áp lực nặng nề trong giờ học
- Hoạt động này sẽ không hiệu quả nếu giáo viên chưa đi sâu đi sát đến từng nhóm và hướng dẫn các nhóm hoạt động. Và đây cũng chính là nguyên nhân đẫn đến kết quả hoạt động nhóm chưa đạt yêu cầu.
- Giáo viên không nên để các nhóm tự hoạt động hoặc ít để ý đến các em, như vậy sẽ có nhóm các em gây ồn ào mất trật tự, có nhóm chỉ có một vài em làm việc còn lại một số các em khác không chú ý, ngồi chơi hoặc làm việc riêng.
VI. KẾT LUẬN
“Thảo luận nhóm” là một phương pháp dạy và học nhằm mang lại kết quả cao trong giáo dục. Nó không những giúp các em có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp, giảm bớt thời gian để học bài củ ở nhà mà còn giúp cho học sinh mở rộng kiến thức, phát triển được tư duy khoa học, giúp học sinh phát triển kĩ năng nói, giao tiếp - tranh luận, khả năng làm việc độc lập của cá nhân. Qua đó phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao tinh thần đoàn kết và nâng cao kết quả học tập.
Tuy nhiên, để vận dụng tốt và rộng rãi phương pháp này vào dạy học ngoài những giải pháp nêu trên thì bản thân mỗi giáo viên phải bỏ nhiều công sức, sáng tao trong lao động, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đòi hỏi GV phải luôn học tập trao dồi năng lực tư duy, nắm vững lí luận, thường xuyên rèn luyện nghiệp vụ và hành động của mình trước khi giáo dục học sinh.
Với kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian giảng dạy chưa nhiều nên tôi chỉ nêu ra đây một phương pháp dạy - học mà bản thân tôi thấy tâm đắc nhất góp phần vào đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay. Với phương pháp này tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên có thể vận dụng vào giảng dạy để nâng cao hứng thú và kết quả học tập cho các em.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài viết, những vấn đề mà tôi đưa ra còn nhiều thiếu sót, hy vọng sẽ nhận được những đóng góp thiết thực và quý báu của quý thầy cô, đồng nghiệp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn giáo dục quốc phòng an ninh trong trường học.
VII. KIẾN NGHỊ
Giáo dục kiến thức QPAN cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là hết sứa quan trọng. Tuy nhiên, đối với môn học này các đồ dùng thiết bị còn quá ít ví vậy để môn học đạt kết quả cao tôi có một vài kiến nghị sau đây:
- Sở GD & ĐT cần quan tâm hơn nữa về việc cung cấp các loại tranh ảnh, mô hình, vũ khí trang bị, máy móc cho các trường.
- Nhà trường cần mua một số tài liệu liên quan đến nội dung giảng dạy môn GDQP-AN như các loại sách báo về: biển đảo, Điều lệnh đội ngũ, kĩ thuật quân sự, các loại báo như an ninh, quân đội….. để giáo viên và học sinh có cơ hội tìm hiểu thêm.