Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết (tháng 1 năm 1954), hòa bình trở lại, miền Bắc được giải phóng, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. "Khi về Hà Nội tôi có cảm giác như mình để lại một phần đời ở Việt Bắc. Đó là lí do giản dị khiến tôi viết bài Bắc". Tố Hữu đã có lần tâm sự như vậy.
Phần đầu bài thơ tái hiện một giai đoạn gian khổ vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc.
Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và là tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh. Đề tài và cảm hứng của bài thơ là một vấn đề chính trị mang tính thời sự. Bằng tài năng và những tình cảm chính trị, Tố Hữu đã khiến Việt Bắc là những vần thơ chính trị mà "rất đỗi trữ tình".
Bài thơ xây dựng cấu tứ trên một hoàn cảnh đặc biệt- chia tay. Đó là cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở - người đi, những con người đã từng gắn bó lâu dài (15 năm) với biết bao nghĩa tình sâu nặng (thiết tha mặn nồng). Trong buổi chia tay ấy, họ cùng nhau gợi lại biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng nhau cất lên nỗi hoài niệm tha thiết, cùng nhau khẳng định nghĩa tình bền chặt và cùng nói với nhau những hẹn ước tương lai.
Lối câu tứ này vốn dùng để diễn tả những tâm trạng của tình yêu, tình nghĩa riêng tư giữa hai người yêu nhau. Tố Hữu đã vận dụng vào việc thể hiện nghĩa tình cách mạng rộng lớn. Như vậy, nghĩa tình cách mạng, những tình cảm của những con người kháng chiến được chuyển tải đến ông người bằng con đường tình yêu đôi lứa. Đó là một lối cấu tứ độc đáo, sáng tạo.
Bài thơ vận dụng lối đối đáp quen thuộc trong ca dao - dân ca. Kẻ ở - người đi hỏi và đáp. Nhà thơ có lúc phân thân thành kẻ ở, người đi, có lúc hóa thân thành người đi hay kẻ ở. Điều đó đã tạo nên sự hô ứng đồng vọng ngân vang. Qua lớp đối thoại bên ngoài là những lời độc thoại sâu sắc và tinh tế của tâm trạng.
Để góp phần tao nên tiếng nói đồng vọng ngân vang trong tâm hồn, nhà thơ đã mượn một cách khéo léo và sáng tạo hai từ "mình” và "ta" trong ca dao. "Mình" được dùng để chỉ bản thân (ngôi thứ nhất: "Ai lên mình gửi cho ta với nàng") nhưng con được dùng để chỉ đối tượng gần gũi, thân thiết (ngôi thứ hai). "Ta" cũng được dùng để chỉ bản thân (ngôi thứ nhất số ít: "Mình về mình lại nhớ ta") nhưng còn được dùng để chỉ chung hai hay nhiều người (ngôi thứ nhất, số nhiều: "Ta cùng đánh Tây", "lòng ta ơn Bác",...). Chính Tố Hữu cũng đã xác nhận: "Mình và ta, ta và mình- cả hai đều là chủ thể. Mình ấy, ta ấy là một phần của đời sống thi sĩ đã trải qua bao nhiêu năm ở Việt Bắc. Cái phần đời này trò chuyện với phấn đời kia. Cuộc chia tay không phải diễn ra bình thường mà nó diễn ra trong máu thịt, trong tâm hồn nhà thơ". "Ta" và "mình" có sự chuyển hóa đa nghĩa: vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, vừa phân đôi vừa hòa nhập làm một nhiều khi rất khó phân biệt:
"- Mình đi mình có nhớ mình "
"- Mình đi, mình lại nhớ mình"...
Chính điều đó đã tạo nên quan hệ gắn bó giữa hai nhân vật (thường dùng trong quan hệ yêu đương, vợ chồng).
Tâm trạng và cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ. Từ "nhớ" được điệp đi điệp lại trong bài thơ có tới không dưới 30 lần. Hoài niệm thiết tha làm sống dậy những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Qua nỗi nhớ, cuộc sống và cảnh vật hiện ra lúc rõ nét, lúc mơ màng vời vợi, lúc cô đọng như đúc kết những trải nghiệm.
Tất cả những gì nhà thơ thể hiện trong đã được chuyển tải bằng giọng thơ ngọt ngào, êm ái, hồi hoàn nhịp nhàng như lời ru ru con người vào một thế giới tâm tình đằm thắm đầy ân tình.
Bài thơ mở ra trong khung cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn. Người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh và dường như đọc được những điều khó nói trong tâm trạng người ra đi nên đã lên tiếng trước:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"
Lời mở đầu là những câu hỏi khơi nguồn cho dòng mạch nhớ thương tuôn chảy ào ạt. Tình cảm lưu luyến không chỉ bộc lộ qua hình thức hỏi - đáp mà còn được bộc lộ một cách trực tiếp qua những từ ngữ chỉ tâm trạng cảm xúc: 'thiết tha", "mặn nồng", "tha thiết", "bâng khuâng", "bồn chồn", "mặn mà",.. Hai tiếng "mình đi" (mình về) liên tiếp được nhắc lại, đặc biệt là trong lời của người ở lại. Và cùng với những tiếng thân thương đầy lưu luyến ấy, người đi – kẻ ỏ cùng nhau nhắc lại những kỉ niệm. Những ngày "mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù"; những ngày ở "chiến khu" mà "miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"; rồi "khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh"; rồi "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”,...
Sau những câu hòi liên tiếp của người ở lại, người ra đi khẳng định;
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.
Mình đi, mình lại nhở mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tinh bấy nhiêu..."
"Ta - mình", "mình - ta", "sau - trước’’.., "mặn mà”, "đinh ninh”,... là lối so sánh "bao nhiêu... bấy nhiêu”, đặc biệt là so sánh nghĩa tình với nước trong nguồn, một phép so sánh mượn từ ca dao đã khẳng định nghĩa tình bền chặt không bao giờ vơi cạn. Nghĩa tình cách mạng được ví như công cha nghĩa mẹ thì quả thật không phép so sánh nào hơn được nữa.
Phần tiếp theo là phần dài nhất (66 câu). Những kỉ niệm "vơi đầy" được tái hiện qua nỗi nhớ mà ở đó thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên vô cùng sống động, đầy ơn nghĩa. Những kỉ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng cũng theo đó mà hiện lên.
Thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng trong nhiều bối cảnh thời gian, không gian khác nhau. Điều đáng chú ý là hình ảnh thiên nhiên luôn gắn với bóng dáng con người. Người ta hay nhắc đến 10 câu thơ được coi như một bộ tranh tứ bình, vừa là bộ phận của bài thơ lại vừa như một bài thơ bởi nó hoàn chỉnh một ý thơ:
"Ta về, minh có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nỏ trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng giang
Ve kêu rưng phách đổ vàng
Nhờ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu tràng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Hai câu mở đầu mang nội dung khái quát toàn bộ đoạn thơ: thiên nhiên Việt Bắc (hoa) hòa với con người Việt Bắc (người) trong tâm trạng nhớ thương vơi đầy (nhớ). Tám câu còn lại chia thành 4 cặp, mỗi cặp làm thành một bức tranh, bức nào cũng có cảnh (hoa) có người. Đây là bộ tứ quy về hoa và người của bốn mùa Việt Bắc. Nét đặc sắc của cả bốn bức tranh là có đủ màu sắc, âm thanh, ánh sáng, đường nét,... có cảnh và có người. Đó là màu xanh của cây lá, màu đỏ của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách và màu trắng bàng bạc của đêm trăng. Đó là âm thanh của tiếng ve và tiếng hát. Đó là ánh nắng trưa và ánh trăng đêm. Thời gian không chỉ có đủ 4 mùa: đông- xuân- hạ- thu mà còn có một buổi sáng tinh khôi, một buổi trưa nắng đẹp, một đêm trăng thanh bình. Đặc biệt trên cái nền của thiên nhiên bốn mùa Việt Bắc ấy hiện lên hình ảnh những con người Việt Bắc với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, vẻ đẹp khỏe khoắn hay duyên dáng, tài hoa trong công việc lao động, vẻ đẹp của những con người nặng ân tình. Thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau, tôn vẻ đẹp cho nhau, đó là sự gắn bó không thể tách rời. Tất cả cứ lung linh hiện lên trong nỗi nhớ thương tha thiết. Tố Hữu đã thể hiện sự giàu có trong tâm hồn những con người cách mạng, một sự giàu có đầy lãng mạn và cần thiết của những con người đã làm những bản anh hùng ca rất đỗi nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Hồi tưởng về cuộc kháng chiến anh hùng, giọng thơ bỗng trở nên sôi nổi, cuồn cuộn hào hùng:
"Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cũng đánh
Tày Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù".
Như vậy, rừng Việt Bắc đâu chỉ đơn thuần là những bức tranh thiên nhiên gắn với những kỉ niệm "vơi đầy" mà rừng núi đã trở thành một lực lượng hùng mạnh tham gia kháng chiến.
Đến đây, điệp từ" nhớ" dường như cũng trở nên dồn dập hơn bởi cùng với nó là hàng loạt những địa danh được liệt kê: Phủ Thông, Đèo Giàng, Sông Lò, Phố Ràng, Cao- Lạng, Nhị Hà. Đây là những địa danh gắn với những chiến công buổi đầu, những chiến thắng mở màn vang dội. Chiến công nối tiếp chiến công được diễn tả bằng nhịp thơ dồn dập.
Theo mạch phát triển của cảm xúc và hình tượng, nhà thơ đã tái hiện không khí hành quân giành chiến thắng của quân dân ta. Những từ láy: "đêm đêm", "rầm rập", điệp điệp trùng trùng","thăm thẳm",... cùng với những hình ảnh kì vĩ, lớn lao: "quân đi điệp điệp trùng trùng", "dân công đỏ đuốc từng đoàn", "ánh sao đầu súng", "bước chân nát đá muôn tàn lửa bay", "đèn pha bật sáng như ngày mai lên",... đã diễn tả không khí của những cuộc hành quân đầy tính sử thi. Ta như nghe thấy tiếng đất rung, núi chuyển, tiếng những bàn chân tiếp bước bàn chân tiến tới thắng lợi để rồi:
"Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tảy Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"
Một đoạn thơ hầu như chỉ toàn là các từ chỉ địa danh, những địa danh gắn với những chiên công oai hùng làm nức lòng người. Từ "vui" xuất hiện trong tất cả các dòng thơ đã làm nên một sự cộng hưởng. Đó là niềm vui dạt dào, mạnh mẽ và lâu bền.
Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và của thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Việt Bắc là một trường ca chính trị được biểu hiện hết sức trữ tình, ngọt ngào. Đây là một thi phẩm tiêu biểu nhiều mặt cho hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc là khúc hát ân tình mà ở đó cái riêng và cái chung hòa vào nhau:"Nỗi niềm riêng của tôi đã thành nổi niềm, tình cảm chung của cán bộ, chiến sĩ, của nhân dân" (Tố Hữu).