Ngay câu mở đầu đã cho ta thấy đó là một tiếng khóc của cộng đồng, của dân tộc:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ.
Đồ Chiểu đã nhân danh vận nước, nhân danh lịch sử mà khóc những người dân anh hùng xả thân cho Tổ quốc. Đấy là tiếng khóc có tầm vóc sử thi, tầm vóc thời đại.
Đến phần Ai vãn, tiếng khóc được bộc lộ trực tiếp qua nỗi lòng Đồ Chiểu và tình cảm của nhân dân đối với nghĩa sĩ đã hi sinh cho đất nước. Ở đây, các tình cảm đan cài vào nhau, những nguồn cảm xúc cộng hưởng với nhau trong tiếng khóc thương này, tạo nên một giọng điệu trữ tình đa thanh, giàu cung bậc.
Trước hết, là nỗi xót thương vô hạn đối với người nghĩa sĩ. Ở đây có nỗi tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn đang dang dở, chí nguyện chưa thành:
- Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.
- Ôi thôi thôi! Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm…
Có nỗi căm hờn những kẻ đã gây nên nghịch cảnh éo le:
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Nhưng xót xa nhất là nỗi lòng của những gia đình mất người thân, tổn thất không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ:
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Câu văn như được viết bằng nước mắt xót thương vô hạn của Đồ Chiểu. Chỉ riêng một câu văn này cũng cho ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với các gia đình liệt sĩ. Nhiều niềm cảm thương cộng lại thành nỗi đau sâu nặng, không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi, tất cả đều nhuốm màu tang tóc, bi thương:
Đoái sông cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng…
Đau thương vô hạn nhưng không bi lụy, vì trong nỗi đau vẫn có niềm cảm phục và tự hào đối với người nghĩa sĩ. Đó là những người dân thường đã dám dứng lên bảo vệ từng tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo của mình chống lại kẻ thù hung hãn, lấy cái chết để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại - thà chết vinh còn hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Bằng cả tấm lòng của mình, nhà thơ biểu dương công trạng của người nghĩa sĩ đã hi sinh cho đất nước, đời đời nhân dân ngưỡng mộ, Tổ quốc ghi công:
- Ôi! Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.
- Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đinh miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Những điều phân tích trên đây cho ta thây tiếng khóc của Đồ Chiểu là một tiếng khóc cao cả, thiêng liêng, khóc thương những nghĩa sĩ hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, khóc thương cho một thời kì lịch sử khổ đau nhưng vĩ đại của dân tộc.
Tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng những con người tiêu biểu và đẹp nhất nước ta trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Tiếng khóc đó không chỉ gợi nỗi đau thương mà cao hơn nữa còn khích lệ lòng căm thù và ý chí tiếp nối sự nghiệp dang dở, tinh thần đánh giặc của những người nghĩa sĩ: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; …”