Hình ảnh độc ác, tàn nhẫn của ông Nghị, bà Nghị trong tác phẩm đã giúp ta hiểu thêm về tầng lớp địa chủ thời ấy. Trọng xã hội Việt Nam giai đoạn 1936-1939, nhân dân ta đang chịu cảnh một cổ hai tròng: thực dân và phong kiến. Thuế thân, thứ thuế đánh trên đầu người rất nặng nề làm cho nhân dân ta vốn không đủ ăn, đủ mặc, lại càng trở nên khánh kiệt, điêu đứng.
Đã vậy, bọn địa chủ chỉ nhờ dịp thuế ngặt nghèo, khi cánh cổng làng Đông Xá đóng lại, trâu không được ra đồng làm việc là chúng tha hồ giở thủ đoạn tàn bạo nhất để mua rẻ bán đắt từ tài sản đến sức lao động của người nghèo khổ nhất. Phải, chính thời điểm ấy, vợ chồng Nghị Quế đã có dịp bộc lộ bản chất tàn ác, bất nhân mua ổ chó và đứa con ruột của chị Dậu.
Trước hết, Nghị Quế là loại địa chủ ngu dốt, vọng ngoại mù quáng, lại rất keo kiệt bủn xỉn. Hắn cho rằng theo Tây, giống Tây là sang trọng nên dặn vợ phải gọi con cái là mợ như bà phán, bà kí trên tỉnh. Nói năng như vậy là văn minh. Từ xưng hô đến cách bày biện trong nhà đều cải tiến. Hắn treo tranh quảng cáo sữa bò giữa hai câu đối trong phòng khách! Tuy nhiên, cách ăn uống của nó thô thiển, thiếu văn hóa, lại mất vệ sinh. Hắn súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà.
Hắn có một cái dinh cơ lớn mà một đĩa giò kho ăn làm mấy bữa, còn dư lại bà Nghị phải đếm từng miếng, giao hẹn với người giúp việc. Nhân lúc sưu thuế ngặt nghèo, vợ chồng Nghị Quế đã dùng thủ đoạn ,"ông đánh bà xoa" để mua rẻ chó của chị Dậu. Túng cùng, sợ anh Dậu đang đau ốm mà bị hành hạ, đánh đập, chị Dậu đứt ruột bán cái Tí. Nhân tiện, vợ chồng Quế mua luôn đàn chó với giá rẻ. ông nghị dùng thủ đoạn "ức hiếp”, "dọa nạt", dồn chị Dậu vào thế bí, biểu hiện qua các cử chỉ đập tay xuống sập, quát..., qua giọng nói lúc thì quát, lúc thì cáu..., qua lời nói: “Bán thì đi làm văn tự. Không bán thi về, về thẳng!”... Trái lại, bà Nghị dùng thủ đoạn "dỗ dành", làm ra “thông cảm’’ biểu hiện qua cử chỉ an ủi:
"Thôi thế này, chó tao cũng mua vậy, cả chó con lẫn chó cái sang đây tao trả cho một đồng nữa. Với con bé kia một đồng là hai. Thế là mày đủ liền nộp sưu lại khỏi nuôi chó, khỏi nuôi con, sướng nhé!”
Cái từ sướng nhé của bả Nghị thật nhẫn tâm, tưởng như nhát dao cắt thêm một nhát vào tấm lòng đang đứt đoạn của người mẹ nghèo khổ, cùng quẫn. Có người mẹ nào sung sướng khi phải xa rời đứa con ruột thịt của mình với niềm vui sướng khỏi phải nuôi con như chị? Tại sao bà Nghị, là một phụ nữ lại không hiểu rõ điêu ấy?
Phải chăng vì mối lợi đã làm bà tối mắt, nói và làm chỉ cố thuyết phục người ta làm theo ý riêng của bà, có lợi cho bà nhất mà thời? Chà đạp lên tình mẫu tử thiêng liêng, bà Nghị quả là con người tàn nhẫn! sự ti tiện bủn xỉn thật dễ nhận ra khi vợ chồng Nghị Quế muốn mua rẻ con bé đã tỏ ra nghi ngờ, dèm pha, hạ tuổi cái Tí xuống 6 tuổi, có lí do trả giá rẻ hơn nữa! Thảm hại đau đớn cho chị Dậu thì tàn nhẫn, bất nhân bấy nhiêu lại dồn về Nghị Quế! Thực vậy, một đứa trẻ ngây thơ, hiếu thảo nhưng cái Tí lại bị chà đạp. Với chó, bà Nghị căn dặn che cho nó khỏi nắng còn cái Tí lại bị bà bắt ăn cơm thừa của chó. Thực không có tính ngươi!
Vơ vét cũng chưa hả. Vợ chồng Nghị Quế còn lật lọng bằng cách đê tiện nhất. Từ hai đồng hứa mua cái Tí, cuối cùng cũng chỉ có hai đồng lại có thêm một bầy chó. Chị Dậu van nài, bả hứa cho thêm hai hào nữa nhưng lại bắt đóng lại hai tiền giấy mực. Chúng thật xảo quyệt! Chị Dậu biết bị xử ép, thiệt thòi nhưng về thì đâm đầu vào đâu, để chồng bị trói đến bao giờ nữa? Hiểu rõ hoàn cảnh chị, vợ chồng Nghị Quế đã không hề nương tay giúp đỡ mà còn chén ép nhiều hơn.
Cho đến khi cái văn tự bán con viết xong thi có lẽ cả chị Dậu, cả người đọc chúng ta đều sửng sốt đến hốt hoảng! Mua bán với giá hai đồng mà văn tự đã thành hai mươi đồng. Thực là trắng trợn chưa từng có! Thế là chị Dậu không có cơ hội chuộc lại đứa con thân yêu của mình. Để giải thích cho chị Dậu khốn cùng ấy, bà ta đã nói: “Tao nắm đằng chuôi chứ không nắm đằng lưỡi”. Thật là đau xót cho chị Dậu. Chị Dậu đứt ruột đến bao lần! Chị Dậu bảo vệ người chồng đau ốm khỏi bị đánh đập mà khó khăn chồng chất đến thế! Sưu thuế đánh lên đầu người dân nghèo mà nặng nề đến thế ư?
Sự ti tiện và lật lọng đến thế vẫn chưa đủ, ta còn hốt hoảng hơn khi “bà” Nghị giàu sang ấy còn trả tiền thiếu cho chị, để đến nỗi việc đóng thuế còn rắc rối mãi. Sợi dây khốn cùng bế tắc ngày càng thắt chặt lấy người phụ nữ đáng thương này!
Đến đây thì bản chất “mặt người dạ thú”, giàu mà dốt nát, bất nhân đã lộ rõ ra. Chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa biểu hiện, Ngô Tất Tố đã xây dựng được hai nhân vật phản diện rất điển hình cho một địa chủ ngu dốt, bất nhân đương thời.
Qua hành vi, ngôn ngữ của vợ chồng Nghị Quế, ta hiểu được bản chất bất nhân, tàn ác của một tầng lớp xã hội trong buổi nhân dân ta còn chìm đắm trong bóng đêm của thời Pháp thuộc. Đó là cách làm giàu, cách sống của một tầng lớp người quên tình dân tộc và quên tình đồng loại. Ta càng hiểu vì sao nông dân ta đi làm cách mạng để giành lấy quyền sống cho mình. Ngày nay và cho mãi mãi sau này, Tắt đến còn mãi như một minh chứng hùng hồn cho tội ác của chế độ sưu thế trước Cách mạng tháng Tám 1945.