Xã hội trong truyện Lão Hạc là một xã hội bất công, cầm tù nhân dân trong cảnh nghèo đói, lam lũ. Bên cạnh những người do nghèo đói mà đi ăn trộm như Binh Tư, còn có những con người lương thiện giàu lòng tự trọng như Lão Hạc - đóa sen thơm ngát giữa ao bùn!
Là một nông dân nghèo, không có ruộng, lão phải cày thuê cuốc mướn. Lão dành dụm, chắt chiu mới có mảnh vườn nho nhỏ. Tài sản duy nhất giúp lão có thêm chút hoa màu. Hoàn cảnh lão thật đơn chiếc; vợ lão mất sớm, còn hai cha con mà phải chật vật mới đủ ăn hàng ngày, lấy đâu ra cho con trai cưới vợ? Tiền mặt, tiền cau, tiền rượu, tiền cưới nữa chắc phải mất đến hai trăm. Không cưới nổi vợ, con trai lão buồn rầu bỏ đi phu cao su, gửi lại biếu bố vài đồng bạc ăn quà và con chó Vàng - dự định sẽ thịt trong ngày cưới. Vợ mất, con đi biệt xứ với lời hẹn có bạc trăm mới trở về, lão sống cô đơn, hiu quạnh với tuổi già, chỉ có con Vàng làm bạn. Lão dồn tình thương nhớ con trai cho con Vàng. Ngòi bút bùi ngùi xúc động: “Già rồi, mà ngày cũng như đêm, thui thủi một mình thì ai chả buồn". Những lúc đó có con Vàng làm bạn cũng đỡ hơn một chút. Lão và con Vàng sống lây lất qua ngày với củ ráy, củ khoai, bữa trai, bữa ốc... Vậy mà ngặt nghèo đến nỗi lão phải xa con Vàng. Trong nụ cười gượng gạo, chứa chan bao nước mắt, cay đắng, xót xa cho số phận: “Thì ra cậu Vàng ăn khỏe hơn tôi, ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ăn thế thì tôi lấy đâu ra tiền mà nuôi. Thôi thì bán phắt đi, đỡ được đồng nào hay đồng nấy". Xã hội khắc nghiệt đã cướp đi tất cả niềm vui nhỏ bé của lão. Chưa hết tai ương, cơn bão lại cướp đi những hoa màu ít ỏi trong vườn. Rồi cơn ốm hai tháng mười tám ngày đã đẩy lão xuống tận cùng cơ cực, nghèo đói. Lão chọn cái chết khốc liệt, chua chát: tự đầu độc.
Câu chuyện chứng tỏ lão Hạc là con người đôn hậu. Những lời tâm sự, suy nghĩ chân tình của lão trong cảnh ngặt nghèo khi nói với ông giáo khiến ta mủi lòng. Lòng đôn hậu của lão còn biểu hiện cảm động hơn qua cách chăm sóc con Vàng. Lão chăm sóc nó như chăm một đứa trẻ: cho nó ăn cơm bằng bát, lão ăn gì cũng cho nó ăn: lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ, rồi lão bắt rận, rồi lão tắm cho nó, rồi nựng nịu mắng yêu nó... Đến lúc túng quẫn không còn ai để nuôi nó, thậm chí không còn gì để nuôi thân, dự định bán nó đi mà lão đắn đo mãi. Khi bán nó rồi lão khóc vì thương: lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước và nhất là vì lão xót xa thấy “già bằng ấy tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó”. Lòng thương và nỗi ân hận của lão đối với con Vàng sâu sắc đến mức trở thành nỗi đau khôn lường: mặt lão đột nhiên co rúm lại... cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc và ân hận:
"Khốn nạn ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu!... nó cứ làm in như là nó trách tôi...: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này đấy à?".
Thật là một con người đôn hậu, chất phác! Biết bao người dám lừa bịp và xử tệ với thân nhân, đồng loại không một chút xót thương. Vậy mà lão Hạc, do hoàn cảnh ngặt nghèo vẫn tự trách mình chưa tốt với con chó!
Không những thế, lão Hạc còn là một nông dân giàu tự trọng. Dù sống trong cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn, lão vẫn giữ lòng tự trọng. Lão nghèo nhưng không hèn, không vì miếng ăn mà quỵ lụy kêu xin ai. Thậm chí đoán vợ ông giáo hơi có ý phàn nàn về sự đỡ đần của ông giáo đối với mình, lão đã lảng tránh ông giáo.
Tự trọng đến mức không muốn sau khi mình chết còn bị mọi người khinh rẻ. Chẳng còn gì ăn mà lão vẫn không hề đụng tới số tiên dành dụm và đem gửi ông giáo để nếu mình chết thì ông tang ma cho mình: “Con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được: để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt được mắt...” Thật là một nhân cách hiếm có trên đời!
Cảm động hơn là tấm lòng lão Hạc dành cho đứa con trai độc nhất của lão. Thương con lão ước mong cho con hạnh phúc. Dù đói khổ không còn cái ăn nhưng biết con trai không đủ tiền cưới vợ, lão vẫn giữ nguyên vẹn cái vườn cho con với ý nghĩ “mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Vì nghèo, lão không cưới được vợ cho con. Càng đau xót hơn khi con đi làm đồn điền cao su “nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con của tôi”. Thương nhớ con, lão nói chuyện với con Vàng và cảm thấy như vơi đi nỗi nhớ con vì con Vàng là một kỉ niệm của con trai lão để lại.
Thương nhớ con, lão suy nghĩ sâu xa, không thể bán vườn vì lão nghĩ đến tương lai của con. Lão đã để riêng hoa lợi của khu vườn, dành làm vốn cho con sau này. Lão đã hi sinh tất cả vì con. Trước khi mất, lão gửi mảnh vườn lại cho ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão để khi con trai về giao lại cho con. Lão chết nhưng tấm lòng vẫn hướng về con và mong muốn cuộc sống của con trai mình không gặp cảnh đớn đau như lão. Bi thương thay cuộc đời lão Hạc!
Lão muốn sống trong sạch nhưng xã hội ấy không cho lão sống. Cuộc đời quá bế tắc, lão phải tự tử để bảo toàn danh dự của mình. Cái chết của lão Hạc đã chứng minh sự trong sạch của lão. Cái chết của lão đã tố cáo xã hội đen tối thời bấy giờ không thể chấp nhận một con người lương thiện như lão. Lão Hạc quá là một nhân cách cao đẹp, dù cuộc sống có cơ cực đến đâu. Nam Cao đã khắc họa được hình ảnh lão Hạc thật đẹp đẽ, cao quý như hình ảnh những con cò, con hạc trong bài ca dao
"... Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con".
Là một nông dân sống trong hoàn cảnh ngặt nghèo của xã hội thực dân, phong kiến, con người luôn bị cảnh chết chóc đe dọa hàng ngày. Vậy mà lão Hạc vẫn giữ tròn phẩm chất cao quý, bản chất lương thiện. Tấm lòng yêu thương và hi sinh vì con của lão thật đáng quý. Xúc động trước tình phụ tử cao quý thiêng liêng của lão Hạc, em lại càng yêu quý và ngưỡng mộ con người chất phác mà cao thượng ấy. Sự ra đi của lão Hạc tuy đớn đau, nhưng chẳng khác nào một cánh hạc thanh cao từ bỏ trần gian, bay vút tận trời xanh.
Lão Hạc là hình tượng cảm động và cao quý về người nông dân thời Pháp thuộc. Trước khi mất, lão gửi mảnh vườn cho ông giáo, người hàng xóm thân thiết và tin cậy của lão để khi con trai về, giao lại cho con. Lão tự đẩy mình đến cái chết, để không ăn vào số tiền và mảnh vườn, với mong muốn cuộc sống của con mình không gặp khó khăn như lão. Vậy là con trai lão Hạc là người như thế nào?
Đó là một thanh niên vắng mặt, là tất cả yêu thương và mong đợi của lão. Qua nỗi nhớ của lão, ta hiểu thêm tính cách của anh thanh niên con trai của lão Hạc.
Trước hết, anh là một đứa con trai yêu quý của lão Hạc. Mẹ mất, anh vẫn chăm chỉ làm ăn, ước mơ lấy được người con gái anh yêu và sống hạnh phúc bên nàng. Anh đã chuẩn bị chu đáo cho đám cưới, nuôi con chó để dành cho tiệc vui. Thế nhưng gia đình cô gái thách cưới quá cao, gần trăm bạc! Lão Hạc phân tích cho con: “Bán vườn rồi thì cưới vợ ở đâu?". Thế là cô gái anh yêu trở thành vợ người khác!
Anh ra đi, phải ra đi vì phẫn chí bởi ở lại càng đau khổ! Xa quê hương và người cha thân yêu, anh rất khổ tâm. Nghèo đến không lấy nổi vợ, thật đau xót! Thương cha, có hiếu nhưng anh vẫn phải ra đi, mong có bạc trăm mới trở về để trả món nợ danh dự! Thế là anh xin đi làm đồn điền cao su nhưng ai mà không biết:
Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo!
Chỉ có anh, biết hay không biết, anh vẫn đi với biết bao đau xót và phẫn uất, phẫn uất nên vẫn liều lĩnh đi... ước mơ, hi vọng... thật là đau xót, đáng thương!
“Tôi chỉ biết khóc chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó người ta giữa. Hình của nó người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con của tôi”. Đó là tiếng than đứt ruột của người cha thương con hết lòng mà phải chịu sống xa con! Cha xót, con phải đau! Anh rất hiếu thảo, ngay khi nhận được tiền đăng kí, anh đã nghĩ đến cha: “Con biếu thầy ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà... Con đi chuyến này cố chí làm ăn bao giờ con có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này nhục lắm...". Thương cha và hiếu thảo, anh đã nghe lời cha "chẳng lấy đám này thì lấy đám khác” mặc dầu anh đã trót yêu cô gái. Anh là nạn nhân của tục thách cưới!
Nơi anh tìm đến với hi vọng chịu khó để có bạc trăm lại là nơi đầy đoạ và bóc lột sức lao động tinh vi, tàn nhẫn của thực dân Pháp. Phải chăng anh quá chân thật, hiền lành nên đã ước mơ xa thực tế, chỉ có lão Hạc đã nhìn ra vấn đề "nó là người của người ta rồi, chứ đâu là con tôi?" Hóa ra anh là nạn nhân của bọn thực dân Pháp trong việc chúng vơ vét tài nguyên và nhân lực Việt Nam. Muốn vươn lên, rửa món nợ danh dự, muốn sống đầy đủ và hạnh phúc anh lại rơi vào cái bẫy, trở thành nô lệ đáng thương! Từ đây, cho anh sẽ mỏi mắt chờ đợi bởi lẽ thường tình đã được đúc kết:
Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân
Hình ảnh con trai lão Hạc tiêu biểu cho người thanh niên chân thực, biết yêu thương, có khát vọng vươn lên, sống tốt đẹp bằng công sức lao động của chính mình. Thương cha nhưng bắt đắc chí anh đã trở thành nạn nhân của chế độ bóc lột đương thời.
Nghệ thuật xây dựng rất độc đáo, hình tượng con trai lão Hạc chỉ được phản ánh thông qua cuộc nói chuyện tâm tình giữa lão Hạc và ông giáo. Hình ảnh con trai lão Hạc không rõ nét bằng lão Hạc nhưng thật đáng thương. Cùng với lão Hạc, hai nhân vật đã nêu bật chủ đề tác phẩm và tố cáo chế độ đương thời. Trong đó, những người lao động chân chính là nạn nhân của nghèo đói, hủ tục cưới xin rườm rà và thực chất bóc lột của các đồn điền cao su do Pháp làm chủ. Bên cạnh hình ảnh của chị Dậu, anh Dậu, cái Tí, lão Hạc và con trai lão Hạc góp phần làm rõ bức tranh hiện thực của xã hội ta thời Pháp thuộc.