Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Bài làm 1
Tô Hoài là một trong những cây bút tài ba của nền văn học Việt Nam. Với vốn ngôn ngữ phong phú và sự am hiểu về phong tục và nếp sống sinh hoạt của người miền núi. Ông đã dành nhiều tâm sức để biết về mảng đề tài này. Phía sau những phong tục tập quán đó, chúng ta còn cảm nhận được sự đồng điệu trong tâm hồn tính cách khi Tô Hoài đưa những nét vẽ về vẻ đẹp người miền núi. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cũng là một tác phẩm như vậy. Hiện lên rõ nét và gây ấn tượng mạnh mẽ tới người đọc đó chính là cuộc đời khốn cực, đầy bất hạnh của Mị, nhưng đồng thời nổi bật lên nét đẹp của sức sống tiềm tàng mãnh liệt ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật Mị.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952 của Tô Hoài. Đây là chuyến đi thực tế dài 8 tháng nhà văn Tô Hoài theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc, trực tiếp tiếp xúc với đời sống nhân dân, đồng bào . Nhà văn kể lại những ngày tháng ấy và đôi lời nhắn gửi qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không khuất phục bọn thống trị đày đọa, giam cầm cuộc sống người dân trong cảnh tối tăm, tìm cách vùng lên phản kháng, chống trả lại để tìm cho mình được lối đi của cuộc sống tự do.Và nhân vật Mị và A Phủ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, bổ sung cho nhau, họ có cuộc đời riêng nhưng lại cùng đồng cảm với nhau, cùng chung số phận. Trong đó, nhân vật Mị được Tô Hoài đặc biệt xây dựng nét tâm lý. Từ đó, tác giả muốn qua nhân vật để khắc họa nét đặc sắc trong tâm hồn của người dân vùng miền núi Tây Bắc một cách chân thật và gần gũi nhất.
Mở đầu truyện ngắn là sự xuất hiện của nhân vật Mị đi đôi với những công việc rập khuôn, lặp lại thường ngày, lộ rõ trên khuôn mặt là nét “buồn rười rượi”. Từ đây đã hé mở cho chúng ta thấy cả một thế giới nội tâm đang cùng khổ, bất hạnh. Nhưng trái ngược với điều đó, tác giả quay về quá khứ để vẽ lên một Mị tươi vui, trẻ đẹp và rất nhiều tài năng trước mặt người đọc để thêm thương xót, đồng cảm cho số phận ấy.
"Mi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Tiếng sáo của Mị đã khiến cho biết bao người, biết bao chàng trai xiêu lòng đi theo hết núi này sang núi khác. Nhiều người say mê cô gái ấy mà ”đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị". Nhưng vì nghèo, phải về làm dâu để trừ nợ cho cha mẹ trong nhà thống lý Pá Tra, mong ước của Mị về một cuộc đời được hạnh phúc càng ngày càng như phai mờ trước mắt. Dù yêu lao động, muốn cống hiến hết mình nhưng cô không hề muốn làm mướn để trả nợ cho nhà thống lí, chỉ vì cha mẹ nên cô gái ấy phải buộc lòng làm như vậy. Những phẩm chất đẹp đẽ đều hội tụ đầy đủ ở cô gái ấy hiếu thảo, xinh đẹp, tài năng nhưng cuộc đời bất công lại không để Mị có được sống cuộc đời hạnh phúc lại còn bị bọn thống trị chèn ép mà cuộc đời càng ngày càng đi vào ngõ cụt với đầy đau khổ.
Mị là hóa thân cho người phụ nữ miền núi lúc bấy giờ với những nỗi đau, bất hạnh, nỗi tủi nhục. Cô cật lực làm việc, bị đối xử “không bằng con trâu, con ngựa trong nhà”. Làm việc nhiều đến nỗi ám ảnh khiến Mị không đoái hoài tới bất kì điều gì. Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác.Lúc nào cô cũng bị giam hãm trong căn phòng tối tăm, nhìn ra ngoài chỉ thấy một ánh sáng trăng trắng. Không dừng lại ở điều đó, cô còn bị đè nén, áp bức cả về tinh thần, lấy A Phủ về nhưng chưa một giây phút nào Mị được làm người vợ thực sự. Nhà thống lí Pá Tra có rất nhiều kẻ hầu người hạ, lấy thêm Mị về cũng chỉ là một công cụ lao động biết nói, cũng chỉ là một trong những nô lê khác trong nhà thống lí. Mị sống ở nơi đó vô hồn, “Mị cúi không nghĩ ngợi gì nữa", lúc nào "cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Mị phải ở trong không gian thiếu ánh sáng, tối tăm lầm lũi, "mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".
Trong suốt nửa đầu tác phẩm, người phụ nữ ấy gần như chẳng muốn nói lên lời. Đặc biệt Mị đã bị cúng trình ma, với nỗi ám ảnh cùng suy nghĩ cả đời mình sẽ không thoát khỏi nơi đây nên Mị chán nản sống qua ngày, cầm cự cho đến lúc chết. Cái chết đè nặng lên cảm xúc khiến Mị muốn đưa ra quyết định ấy nhưng lại từ bỏ. Bọn thống trị tàn ác đã đẩy Mị từ cô gái trẻ trung giàu sức sống trở thành một cô gái với đầy tổn thương, bất hạnh cùng cực. Chính điều đó cũng là lời tố cáo đanh thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương thời.
Dù có những lúc Mị đã mất đi hoàn toàn sự phản kháng, sức lực để chống lại nhưng đâu đó trong Mị vẫn bùng lên sức sống tiềm tàng, ẩn sâu trong Mị vẫn luôn âm ỷ khát vọng sống, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ.
Trong đêm tình mùa xuân tới, Mị ngân nga nghe tiếng sáo thổi gọi bạn đầu làng, tiếng sáo thiết tha bồi hồi. Mùa xuân, mùa cây cối đơm hoa kết trái, cây cối đâm chồi nảy lộc,mùa của nhựa sống căng tràn, của tình yêu đôi lứa. Những lúc này "lòng Mị đang sống về ngày trước", Mị đang như được đắm chìm trong khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời mình như trước kia, khi chưa bước chân vào nhà thống lí Pá Tra. Mị cảm thấy sung sướng tự do, Mị lén lấy rượu uống "ực từng bát" để quên đi hết tất cả, Mị muốn quên luôn đi cả hiện thực phũ phàng dẫu biết sẽ vẫn phải đối mặt. Rồi chính lúc đó tiếng sáo xuất hiện thôi thúc ý nghĩ của Mị, Mị quyết định đi chơi, "Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", sức mạnh tiềm tàng như thôi thúc Mị phải sống, phải tiếp tục phản kháng, tận hưởng mùa xuân về trên Hồng Ngài. Mị đi lấy váy và chuẩn bị đi thị bị A Sử chặn đứng lại, hắn tàn ác trói Mị vào cột nhà. Dù thể xác bị hành hạ, trói lại nhưng không thể chống cự lại tâm hồn phiêu du về những đêm tình mùa xuân nao nức trong lòng của nhân vật Mị về cả nơi cuộc sống hạnh phúc, và tự do của ngày trước.
Tô Hoài đã diễn tả tâm lí nhân vật Mị hết sức phức tạp nhưng lại vô cùng hợp lý. Sống trong cảnh bị giam cầm, áp bức, nhiều lần Mị muốn nổi loạn, muốn thoát khỏi sự trói buộc, cầm tù ấy nhưng không thành. Chẳng điều gì có thể giam hãm được Mị, khao khát tự do vẫn cứ cháy mãi trong tâm hồn Mị, âm ỉ thắp lên hy vọng mãnh liệt được sống, được làm chủ số phận. Nếu như chưa thể tự cứu thoát được bản thân trong đêm tình mùa xuân Mị, thì trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, sức sống tiềm tàng ấy một lần nữa được khơi dậy, khi Mị nhìn thấy những giọt nước mắt của A Phủ, Mị tìm thấy trong đó sự đồng cảm. Giọt nước mắt ấy tác động vô cùng mạnh đến tinh thần Mị, Mị chợt nhận ra bản thân mình cũng bị hành hạ, tra tấn như vậy không biết bao nhiêu lần. Vì thế Mị đã cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị không chỉ giải cứu A Phủ mà còn giải cứu được chính mình. Trong đêm tình mùa xuân,khát vọng hạnh phúc, yêu thương lại trỗi dậy cách mãnh liệt, cứ như thế giống với đêm đông khi Mị cứu A Phủ khơi lên khao khát sống một cuộc đời tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.
Với lối kể chuyện hấp dẫn cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã tái hiện được xã hội rối ren đầy áp bức thời điểm bấy giờ và hình tượng nhân vật khắc họa chân thực, rõ nét diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc của Mị trong cung bậc cảm xúc khác nhau. Tác phẩm làm sáng tỏ lên tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả, đồng cảm, xót thương cho số phận bất hạnh của nhân vật. Đồng thời lên án tố cáo bọn thống trị tàn ác đàn áp người dân miền núi.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Bài làm 2
Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.
Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn. Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.
Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời. Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!
Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng.
Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rồi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…
Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.\
Đây là hành động bộc phát xong nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình : ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thể vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Bài làm 3
Nhắc đến Tô Hoài, có lẽ ai cũng biết đến tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký, một truyện ngắn đã gắn bó với tuổi thơ của biết bao thế hệ Việt Nam. Ông là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của ông đều giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Minh chứng cho điều đó là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, một truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955. Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952 .
Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịc lý và cuốn hút độc giả : “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” .
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi , uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” . Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thah hò hẹn của người yêu . Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh . Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu , nhưng thực chất chính là tôi tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .
Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị . Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô . Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống .
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha . Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài mãi sự tồn taịi vật vờ . Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn . Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết , nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .
Sức sống của Mị dường như mất đi . Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người . Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp , bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan . Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu . Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ . Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ . Tác nhân quan trọng là hơi rượu . Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát , “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi . Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng , người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người : “Mị vẫn còn trẻ . Mị muốn đi chơi . Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết . Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ . Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ .
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận . Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn . Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng , ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng . Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi .
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần , cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” . Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc , với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du . Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được . Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy . Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ , gãi chân . Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước .
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ . Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi . Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng : bị trói đứng . Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị . Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô . Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt : “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi” . Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt :“Đêm ấy A Phủ khóc . Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen” . Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước . Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ . Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực . Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được . A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình .
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình . Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ . Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình : “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ” . Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ . Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật , một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận .
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị .
Qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách nhân vật Mị, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến , thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi . Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc , sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động . Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ . Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Bài làm 4
Nhà văn Sedrin đã từng nhận định: “Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” Vậy điều gì đã làm nên sự trường tồn của các tác phẩm văn chương đáng quý đó? Phải chăng chính là ở tấm lòng và tư tưởng tất yếu ở người viết và chủ đề mà nó muốn hướng tới. Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm của nhà văn Tô Hoài muốn chứng minh sức mạnh của văn học. Đó là một bức tranh sống động về người lao động vùng cao Tây Bắc trước cách mạng. Để khắc họa chân thực qua quá trình thức tỉnh và vùng lên ấy, Tô Hoài đã viết những trang văn có sức lay động lòng người được truyền tải thông qua nhân vật Mị.
Nhắc tới Tô Hoài là nhắc đến một cây đại thụ tỏa bóng xuống rừng cây của nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn Tô Hoài thiên về việc phản ánh sâu sắc sự thật cuộc đời và con người. Đó là cuộc đời sáng tạo, học hỏi bền bỉ và không ngừng nghỉ với số lượng tác phẩm chạm đến mức kỷ lục gần 200 đầu sách được ra đời. Một trong số đó không thể thiếu Vợ chồng A Phủ một tác phẩm được sáng tác năm 1952, in trong tập “tập truyện Tây Bắc”. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng cùng với cán bộ vào giải phóng các dân tộc thiểu số từ khu du kích cho đến từng bản làng, có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với người dân, đồng bào nơi đây. Vợ chồng A Phủ ra đời như món quà tinh thần mà Tô Hoài muốn gửi gắm tới con người và mảnh đất này. Nhà văn quan niệm rằng “nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm”. Quả thật vậy, câu chuyện làm nền để nổi bật lên nhân vật trung tâm mà tác giả muốn khắc họa trước mắt người đọc nhân vật Mị, linh hồn của tác phẩm.
Mị được tác giả tái hiện lên mang nhiều phẩm chất đáng trân trọng, Mị là cô gái yêu tự do, là cô gái hiếu thảo, tài năng và khao khát sống. Tuy nhiên lại là một vật thế mạng cho món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại, buộc lòng Mị bị bắt trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Từ lâu Mị đã ý thức được việc này và muốn lên tiếng tố cáo hủ tục từ lâu của người dân Tây Bắc. Mị không muốn bị bố bán con cho nhà giàu” để thấy được cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời cũng được nhưng dù thế nào cũng không về nhà thống lí làm dâu để gạt nợ.
Mị cảm thấy tủi nhục, bất hạnh, cuộc sống cô trở thành một màu xám xịt: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” từ khi bị bắt phải làm dâu nhà thống lí. Nhiều khi Mị còn có ý định ăn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến cha khiến Mị không đành lòng chết mà phải tiếp tục sống để trả nợ cho cha. Nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại là hành động thể hiện sự kháng cự, sức mạnh tiềm tàng, muốn vùng dậy đấu tranh để giải thoát cho kiếp thân mình của Mị. Thời gian thấm thoát thoi đưa, sức mạnh, sự cự tuyệt trong Mị ngày một tiêu tàn, Mị trở nên lầm lì, chai sạn với những nỗi đau. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên với vẻ mặt “buồn rười rượi”. Mị phải làm việc quần quật, những công việc lặp đi lặp lại liên chân liền tay chẳng bằng con trâu, con ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ”. Mị bị giam hãm trong không gian tối tăm: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng, dường như chẳng còn có khái niệm về thời gian. Ở trong phòng thiếu ánh sáng như thế, nhiều lúc Mị đã nghĩ rằng cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.
Cứ ngỡ rằng Mị sẽ tồn tại trong trạng thái rũ rượi như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không khí của mùa xuân ùa về đã đánh thức tâm hồn và lòng yêu đời của Mị khát khô hi vọng sống của cô. Tiếng sáo đem theo âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khơi gợi miền ký ức trong quá khứ của Mị, Mị nhớ về cuộc sống tự do trước kia của mình trước, khi còn được tự do bay nhảy, thổi sáo, hát ca, nhảy múa. Mị nhẩm thầm tiếng sáo vi vu:
“Mày có có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.
Tiếng sáo có sức quyến rũ đến diệu kì, thao thức cả một tâm hồn. Tiếng sáo ấy đưa Mị trở về, làm tâm hồn Mị trỗi dậy một cách lạ thường, Mị như được sống lại một lần nữa với những cảm xúc của một thời tuổi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, cam khổ chịu đựng, Mị như được sống thế giới mới, được thoát khỏi cái vỏ bọc sống đúng là chính mình. Mị uống rượu“uống ừng ực từng bát”, mượn rượu làm chất xúc tác để giải tỏa tâm trạng để rồi khi say “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng tâm hồn Mị, Mị cũng muốn nhảy, múa hát, cũng muốn quay về cuộc sống ngày trước”. Không khí của những đêm tình mùa xuân đến lại đem về cho nàng cảm xúc lạ thường, cảm xúc phơi phới và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị ý thức được rằng tuổi trẻ của mình đang tới và muốn được rong chơi, được tận hưởng tuổi xuân của mình như bao người khác. Mị chải chuốt đầu tóc gọn gàng xinh đẹp, lấy ống mỡ bỏ vào ống đèn cho sáng, xúng xính váy áo tinh tươm để chuẩn bị tâm thế đi du xuân. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự thôi thúc, tuổi xuân hồi sinh, mong muốn khát vọng được tung tăng, tự do như thời ngày trước, gồng lên trước thực tại phũ phàng luôn mang trong mình một sức sống mãnh liệt.
Nhưng giữa lúc khát khao bùng lên mãnh liệt thì A sử đã vùi dập nó một cách không thương tiếc. A Sử biết rằng Mị muốn đi chơi nên đã xách thúng sợi đay, A Sử buộc hết tóc của Mị quấn luôn cột để Mị chẳng thể cúi đầu, hay nghiêng ngả được. Dù bị trói ngoài thể xác nhưng chẳng thể nào trói được tâm hồn của Mị. Tiếng sáo văng vẳng trong không gian khiến “Mị vùng bước đi” để chạy theo với tiếng sáo, để được du xuân, để được quay về những tháng ngày đẹp đẽ ngày xưa nhưng Mị chẳng thể kháng cự lại được vì tay chân đau bị trói chặt. Tác giả Tô Hoài lúc này đang tái hiện lại chân thực diễn biến tâm trạng của Mị trong
Tưởng chừng như Mị mãi mãi sống trong cảnh câm lặng tủi hờn nhưng không, một lần nữa Mị lại thức tỉnh trong đêm đông và có hành động táo bạo, mạnh mẽ cắt dây cởi trói cho A Phủ. Những ngày đông trên núi cao u ám và buồn, không chỉ thế mà còn thêm cái rét cắt da cắt thịt của gió đông. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa, hơ tay, hơ chân không biết bao lần. Thói quen của Mị là vậy. Cũng tại đây, Mị bắt gặp A Phủ - nột nạn nhân của cha con thống lí bị trói đúng đến gần chết vì để hổ ăn mất nửa con bò. Hoàn cảnh bi thương đã tác động mạnh mẽ tới Mị. Từ đó tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm tưởng cũng như nhận thức của Mị. Sự thay đổi lớn về mặt tình cảm của Mị khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một trong những chi tiết nghệ thuật đắt giá đã đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong Mị.
Mị nhận ra hoàn cảnh hiện tại của mình khi nhìn thấy giọt nước mắt kia của A phủ. Mị chợt nhận ra bản thân mình trong đêm mùa xuân khi bị A Sử trói quấn cả tóc vào cột nhà, đau không chống cự lại nổi. Mị lại thêm đồng cảm với A Phủ:”Trời ơi, chúng nó trói người đến chết mất thôi”. Hai chữ “Trời ơi” tuy ngắn nhưng đủ hiểu được Mị đã và đang có sự chuyển biến về mặt tình cảm. Từ một con người dửng dưng vốn đã chai lì với thực tại tàn khốc nay tâm hồn ấy sống lại, ý thức dần được tội ác kinh hoàng của nhà thống lí. Mị vốn bị bắt về làm dâu nhà này thì dù sớm hay muộn cũng kết thúc cuộc đời tại đây. Đó là số phận định đoạt của Mị rồi. Nhưng còn A Phủ thì sao? Chẳng phải chúng làm vậy là quá tàn ác hay sao? Trong đầu Mị lúc đó hiện ý nghĩ về cuộc đời: Cuộc đời Mị bị đày đọa một cách bất công, cuộc đời A Phủ bị trói oan và cuộc đời của người chị dâu đã chết trong căn nhà này. Mị ở đây và càng lúc càng nhận thức được tội ác kinh hoàng của nhà Thống Lí, rằng chúng quá tàn nhẫn khi đối xử với một kiếp người như vậy. Cũng từ đây, Tô Hoài như hoàn toàn nhập tâm vào Mị để bộc lộ chân thật tâm trạng và suy nghĩ ẩn sâu được cài cắm đan xen trong lòng của nhân vật Mị.
Chỉ khi có suy nghĩ đúng thì mới dẫn tới việc có hành động đúng. Từ tình thương người, Mị nhận ra ràng việc A Phủ chết ở đây là hoàn toàn không công bằng. Và ”Bọn chúng thật độc ác”, sự căm phẫn dành cho tội ác. Đó là sự thay đổi về nhận thức của Mị. Nhưng lúc này, Mị vẫn còn đang bị kiểm soát bởi con ma nhà Thống Lí “Đám than đã vạc hẳn lửa”. Trong lúc này đang diễn ra quá trình đấu tranh nội tâm sâu sắc và rất phúc tạp. Nếu MỊ giải cứu cho A Phủ, thì Mị sẽ hoàn thành được mong muốn của mình nhưng nếu sau đó bị bắt gặp, Mị sẽ bị trói thay vào chỗ A Phủ. Nghĩ tới hoàn cảnh này, Mị không còn thấy sợ nữa. Lòng người đã khát khao tự do thì sẽ nhất định chiến thắng được con ma nhà thống lí và nỗi sợ hãi bao lâu nay của Mị. Ngọn lửa hi vọng sau thời gian ấp ủ của Mị giờ đây đang được thổi bùng lên.
Thời điểm bấy giờ Mị cũng không còn sợ như trước, chẳng chút phân vân do dự nào, Mị rút con dao nhỏ cắt dây mây ra cắt dây trói cho A Phủ và chỉ kịp thốt lên: “Đi ngay!” Nhịp văn nhanh, gấp gáp, đã khiến người đọc tưởng tượng ra khung cảnh mà tâm trạng của Mị lúc này thảng thốt, hoảng sợ và vô cùng căng thẳng. Khi thấy A Phủ chạy xuống chân núi “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Vốn dĩ, Mị đã mang trong mình khát khao tự do, Mị dám vượt qua con ma nhà thống lí thì hà cớ gì lại không thể chạy theo A Phủ, từ bỏ những đau buồn phía sau? Rồi Mị chạy theo A Phủ thật. Câu văn chỉ có sáu chữ được đứng ngay ở trọng tâm xoáy sâu vào tình huống Mị đấu tranh tư tưởng nên đi hay ở lại. Một lần nữa Mị đấu tranh nội tâm gay gắt nên đi hay ở lại. Nếu Mị chọn ở lại, nhà thống trí sẽ bắt Mị, lại trói Mị như trước kia và cuộc đời Mị lại trở thành địa ngục trần gian. Chỉ có cách này thì cô gái ấy mới có thể giải thoát được chính cuộc đời đen tối của mình. Rồi Mị quyết định vùng chạy theo A Phủ thật ”Ở đây thì chết mất”, Mị đã nhận thức được sự thật rằng cuộc đời mình sẽ trở nên đau khổ và lụi tàn như thế nào khi tiếp tục ở lại. Qua hành động này để thấy được sức sống tiềm tàng và khát khao sống mãnh liệt của cô gái trẻ.
Có thể cho rằng, hành động cắt đứt dây, cởi trói cho A Phủ là hành động tuy bất ngờ, táo bạo nhưng lại hoàn toàn hợp lý với diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị. Nếu như Mị đã từng vô cảm, dửng dưng trước những tình cảm của người khác, bởi cô ấy cho rằng họ cũng chẳng khác gì mình, cũng chịu đau đớn do cái ác của bọn nhà thống lí gây ra thôi, cô đã chai li với hình ảnh ấy. Bản chất con người Mị vẫn là một con người ham sống, khao khát được tự do, căm ghét cái ác và sẵn sàng đứng lên đấu tranh. Hình ảnh cô gái Mị cầu xin cha để không bị bán cho nhà thống lí, hành động muốn ăn lá ngón để kết liễu cuộc đời mình hay những bước chân vùng vẫy trong đêm tình mùa xuân mặc cho sợi dây trói siết chặt, cứa vào tay chân, đầu cổ nhưng chẳng gì có thể ngăn được một con người ý chí như cô. Hành động cởi trói của Mị được đánh giá là một chi tiết đắt giá đã đánh dấu bước chuyển lớn trong diễn biến tâm lí của Mị.
Với hành động táo bạo ấy, nhà văn Tô Hoài đã ngợi ca sâu sắc khao khát sống mãnh liệt của nhân vật. Ông đồng cảm, xót thương cho số phận Mị nói riêng cũng chính là số phận của con người vùng cao nói chung. Qua tác phẩm ta có thể cảm nhận sâu sắc tính cảm của Tô Hoài dành cho từng nhân vật. Không chỉ thế còn phê phán, lên án tội ác của cha con thống lí, tội ác của thế lực phong kiến đã dồn con người tới bước đường cùng. Tác phẩm “” Vợ chồng A Phủ” chính là bức tranh sinh động miêu tả cuộc đời bất hành và cùng với đó ngợi ca sức mạnh tiềm tàng, khao khát sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc của người dân lao động vùng miền núi. Nhà văn đã sử dụng những ngôn từ trong sáng, giản dị, gần gũi làm nên thiên truyện của mình đến gần hơn với người đọc. Kết hợp cùng với lối kể chuyện sinh động, lôi cuốn và linh hoạt, giọng điệu đầy chất thơ càng làm nổi bật lên tác phẩm. Tác giả như hóa thân vào nhân vật, xây dựng tâm lí nhân vật một cách xuất sắc, cùng các tình huống chuyện được tạo dựng vô cùng đặc sắc. Tất cả đã tạo nên tầm vóc của nhà văn lớn mang danh Tô Hoài.
Nhà văn Nga Ai-ma-top đã từng cho rằng: “Tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi các câu chuyện về nhân vật đã kết thúc.” Vợ chồng A Phủ đã khép lại nhưng vẫn để lại trong lòng người đọc những dấu ấn rất riêng về phẩm chất và vẻ đẹp của con người. Qua truyện ngắn cũng truyền cho ta niềm tin vào cuộc sống, khao khát được sống bởi sứ mệnh của con người là sống chứ không phải chỉ để tồn tại một cách vô nghĩa.