“... Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ … Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Nếu được đọc Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ ít nhiều thấm thía cuộc sống cơ Cực của những người dân lao động. Bần cùng và bị bức bách đến mức tha hóa về nhân phẩm là bi kịch lớn nhất mà chính họ phải chịu đựng. Nhưng cũng có những con người trong cơ nhục vẫn “bản lĩnh” hay nói chính xác hơn là liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ, vì một lẽ rất đơn giản: tình yêu, tình người. Đó là ai? Là chị Dậu, là mẹ con anh cu Tràng…
Nếu như người dân Nhật không bao giờ cho phép mình quên sự thảm khốc khi Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki thì người Việt Nam lại không thể quên năm 1945 bởi nạn đói chua từng có trong lịch sử dân tộc. Cho đến giờ, người ta vẫn nhắc về nạn đói năm đó như nỗi kinh hoàng nhất. Trong Vợ nhặt, cái đói, cái chết xuất hiện như một nhân vật có mặt khắp nơi. Người sống “xanh xao như những bóng ma” và “người chết như ngả rạ”. Cõi sống lại như cõi chết, lúc nào cũng “vẩn lăn mùi am thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Có âm thanh đấy, nhưng không còn là tiếng cười đùa ríu ran của bầy trẻ mà là tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết” nghe thảm não. Ấy vậy mà khi tất cả mọi người đang quay quắt trong cái đói, đang từng giờ cưỡng lại thần Chết thì anh cu Tràng lại làm một việc động trời: Lấy vợ. Nhưng mọi sự đều có nguồn cơn của nó. Hàng xóm láng giềng không hiểu sự thể cho anh cu Tràng gàn dở, chỉ có bà cụ Tứ – người dứt ruột đẻ ra anh, người mà cuộc đời đã trải qua bao cay đắng là thấm thía hết cơ sự.
“Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà” là những việc trọng đại của mỗi con người, cần có sự tham mưu của cha mẹ, của bề trên. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại được thông báo một cách đột ngột khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên khôn tả. Ban đầu chỉ là sự thắc mắc khi thằng con trai sốt sắng săn đón khác mọi ngày: “Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp “Mà có việc gì thế vậy?”. Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu chuyện, bà cụ “phấp phỏng bước theo con vào nhà”. Kim Lân đã rất tinh tế khi dùng hai chữ “phấp phỏng” để diễn tả sự lo lắng và nhẫn nại chờ đợi của bà lão.
Hành động “đứng sững lợi” đưa nhân vật tới đỉnh điểm của sự ngạc nhiên. Ngòi bút nhà văn không đứng ngoài quan sát mà nhập hẳn vào tâm trạng nhân vật, thấu suốt nơi băn khoăn đang nảy theo những câu hỏi trong đầu bà lão: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lợi chào mình bằng u? Không phải con cái Đục? Ai thề nhỉ?” Bốn câu hỏi âm thầm liên tiếp bật lên trong suy nghĩ của bà cụ Tứ. Chính bà cụ không trả lời được nhưng cũng không ai trả lời hộ bà. Mọi thắc mắc chỉ xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà trong nhà. Không ngạc nhiên sao được khi ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con nay lại có người thứ ba. Không ngạc nhiên sao được khi giả thuyết con cái Đục – đứa con gái duy nhất đã không còn nữa? Thế mà vẫn có người gọi bà cụ bằng u. Sự điềm tĩnh vốn có ở người già đã giúp bà cụ Tứ không phát hoảng lên. Nhưng đáng thương hơn bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: “Bà cụ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoen”. Rốt cuộc, nỗi băn khoăn của bà cụ Tứ vẫn không được giải tỏ: “Bà lão quay lợi nhìn con tỏ ý không hiểu”. Điều này dễ lí giải bởi trước sự việc của Tràng, bà cụ Tứ hoàn toàn bị động. Mọi việc đang đến với bà là sự đã rồi mà bà là người không hay biết điều gì cả.
Khi Tràng vẫn cố tình “trì hoãn” bí mật của mình, mời mẹ vào nhà ngồi “chĩnh chện”, bà cụ “lập cập” bước vào nhà. Đó là sự run rẩy của tuổi già hay là sự thấp thỏm, lo sợ phỏng đoán những điều bất trắc có thể xảy đến? Với người mẹ nghèo khổ này, còn có điều gì khủng khiếp hơn sẽ đến nữa dây? Hai chữ “lập cập” của Kim Lân làm dậy lên trong lòng người đọc sự thương cảm sâu sắc. Biết trước sự việc rồi nhưng độc giả vẫn hồi hộp chờ đợi phản ứng của bà cụ, vẫn nín thở xem bà cụ sẽ nói gì, làm gì?
Nhân vật của chúng ta vẫn không vỡ lẽ ra mọi chuyện khi cô dâu mới cất tiếng chào lần thứ hai. Và dường như sốt ruột trước sự chậm hiểu của bà cụ, nhà văn còn để cho Tràng chú thích: “Kìa nhà tôi nó chào u? Vậy mà bà cụ Tứ vẫn không thể hiểu được sự thể câu chuyện. Làm sao bà cụ hiểu được khi trong thâm tâm, chính bà cũng không tin con trai mình có thể lấy vợ. Anh cu Tràng vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, làm sao lấy nổi vợ? Với lại trong cái tao đoạn này, có ai còn nghĩ đến chuyện cưới xin được? Nỗi bàn khoăn của bà cụ chỉ hết khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự. “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cài số cả…”. Và. thế là “bà lão cúi đầu nín lặng”. Không phải là “im lặng” mà là nín lặng – tức là im lặng, nín nhịn vì không thể nói được điều gì. Bà cụ Tứ đã hiểu hết mọi chuyện. Kim Lân tiếp tục đồng cảm với những suy tư của bà để thấu hiểu hơn bao giờ hết những tủi hờn, xót xa trong lòng bà cụ: “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. “Ai oán” vì sao? “Xót thương” vì sao? “Bao cơ sự’ ấy là gì? Bà thấm thía lắm chứ.
Những thổn thức trong lòng bà cụ chỉ Kim Lân mới hiểu, cảm thông và giải tỏa cho bạn đọc hiểu được. Thì ra suy nghĩ của bà cụ già không hề giản dị như chúng ta nghĩ. Cái nghèo đói không làm bà cụ dễ dãi chấp nhận cuộc sống buông tuồng. Bà cụ đang đau nỗi đau của người mẹ không thể lo nổi cho hạnh phúc của con mình. Lời văn: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn minh thì ” là lời tự trách, là tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào của người mẹ nghèo khổ. “Tuổi già hạt lệ như sương”, nhưng trong “kẽ mắt kèm nhèm” của bà cụ Tứ “vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng cực. Đó là những giọt nước mắt khóc cho chính sự khốn khó của mình. Nhưng đó cũng là những giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ cho nhân cách của con người không sa xuống bờ vực của sự tha hóa. Người mẹ nghèo cũng chỉ còn những giọt nước mắt ấy làm chứng cho tình yêu tha thiết đối với các con.
Thương đến cháy lòng, khổ đến cùng cực nên bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu văn: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Băn khoăn ấy không phải không có cơ sở. Cả xóm ngụ cư lớn hơn là cả nước đang đảo điên trong nạn đói, giữ được mạng sống cho chính mình đã khó, đằng này, anh cu Tràng lại còn đèo bòng.., Nỗi lo lắng của bà cụ Tứ là nỗi lo của người mẹ có trách nhiệm với con cái. Ở tuổi gần đất xa trời, bà có quyền vô lo vô nghĩ đến những điều đó lắm chứ. Nếu không thương con, nếu không có trách nhiệm với cuộc sống của các con, bà cụ đã chẳng nhọc lòng, khổ sở như vậy.
Trong Vợ nhặt, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở nửa sau của câu chuyện. Với những tình tiết đã xảy ra phía trước, người đọc phỏng đoán bà cụ Tứ sẽ xuất hiện với bộ dạng cay nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng nông thôn. Nhưng ngay cả Tràng cũng bất ngờ trước thái độ của mẹ mình. Sự nhũn nhặn trong cách cư xử, đặc biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khẳng định nhân cách cao đẹp của nhân vật bà cụ Tứ. Trước mắt chúng ta là một người mẹ hết lòng thương con, là một bà cụ nghèo khó nhưng phúc hậu rất mực. Tất cả những điều đã trải qua trong lòng bà cụ đã được Kim Lân ghi lại một cách chân xác, xúc động.
Kim Lân là một trong những nhà văn có khả năng am hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc. Dưới ngòi bút của ông, những nông nỗi sâu kín trong lòng người mẹ già được thể hiện chân thực, tinh tế, xúc động và ám ảnh. Nếu không có sự yêu thương, cảm thông, chia sẻ, nhà vàn không thể thể hiện thành công diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn văn ngắn như thế. Hậu thuẫn cho tấm lòng nhân đạo chắc chắn còn là bản lĩnh nghệ thuật của người cầm bút. Hình ảnh bà cụ Tứ cùng với hình ảnh chị Dậu, hình ảnh người vợ cam chịu tảo tần trong sáng tác của Nam Cao… đã làm nên sự bất tử cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam.