Bài thơ mở đầu bằng bối cảnh bình dị: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác… và khép lại trong hình ảnh…Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Lời bài thơ thật tha thiết, trang nghiêm, có lúc dường như dạt dào chảy, lúc thì như đọng hẳn lại trong một khoảnh khắc suy tư, khiến bài thơ nổi bật hẳn lòng thành kính sâu sắc đối với Bác của tác giả.
Bài thơ mở ra một khung cảnh thân thương của đất Bắc trong nhịp bước của nhà thơ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác … Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Khổ thơ thể hiện tình cảm kính trọng của lớp trẻ miền Nam đối với Bác trong cách xưng hô “Con – Bác” vừa biểu lộ sự ngưỡng mộ, thành kính vừa gần gũi thân thương. Mặc dù sương sớm có làm cảnh vật mờ đi nhưng tác giả vẫn cảm thấy nơi đây thật thân thuộc bởi khung cảnh “bát ngát” lũy “tre” xanh, gợi nhớ trong Viễn Phương một thoáng liên tưởng đến phong thái của dân tộc Việt Nam: vẫn một màu xanh vĩnh cửu, hiên ngang, bất diệt trong tiếng biểu cảm. “Ôi!” nhưng không hề lộ một trạng thái ngạc nhiên mà trái lại, nhà thơ cảm thấy gắn bó với dáng đứng trải dài khắp đất nước của tre mặc dù “bão táp, mưa sa” khắc nghiệt nhất. Tre vẫn tồn tại, phát triển, sừng sững giữa đất trời Việt Nam – Tượng đài “Tre” cũng tương đồng với tượng đài của vị lãnh tụ tài ba…
Đứng trước lăng Bác, nhà thơ không khỏi xúc động trước tình cảm tiếc thương của nhân dân cả nước với công ơn trời biển của Bác qua:
… Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
… Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Đọc câu thơ, ta như “say” trong hào quang rực rỡ của hai ánh mặt trời. Hình tượng mặt trời của Bác được Viễn Phương liên tưởng thật sáng tạo và độc đáo qua nghệ thuật ẩn dụ.
Con người cảm nhận được sự vĩ đại của Bác trong lúc còn sống cho đến lúc mất đi vẫn rạng ngời thắm sắc. Riêng mặt trời thực dù có mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân loại nhưng vẫn chưa có ai tận mắt thấy được màu sắc của nó. Ý thơ ngộ nghĩnh mà độc đáo! Điệp từ “ngày ngày” trong bốn câu thơ vừa thể hiện một quy luật tự nhiên của tạo hóa vừa là quy luật của tình cảm của dòng người nối nhau viếng lăng Bác. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” làm người đọc hình dung được chính mình đang hòa trong dòng người thương nhớ Bác để tô thắm thêm những mùa xuân tuyệt vời mà Bác đã cống hiến cho đời. Toàn bộ khổ thơ thể hiện tình cảm của nhân dân Việt Nam dối với Bác thật đáng kính trong lời thơ trang nghiêm mà tha thiết vô cùng.
Bác đã đi xa nhưng tác giả vẫn cảm thấy Bác đang trong “giấc ngủ” say giữa đất trời bình yên của quê hương “dịu hiền”. Phải, Bác vẫn còn sống trong lòng mọi người! Tác giả có mâu thuẫn không khi viết:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Trong câu thơ, nhà thơ đề cập đến quy luật của cuộc sống qua đó để gửi gắm suy nghĩ của mình. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” càng khẳng định Bác Hồ đã mất thật rồi. Khổ thơ dẫn dắt người đọc từ cái xa đến thực tế đó đã như mũi kim làm “nhói” trái tim của lớp thế hệ khao khát được gặp Bác.
Khổ thơ cuối, nhà thơ đưa mọi người bay bổng theo khát vọng của mình. Vì thương tiếc “trào nước mắt” trước một vĩ nhân mà tác giả “muốn làm con chim” suốt ngày ca hát ngợi ca về Bác, “muốn làm đóa hoa” ngát hương điểm tô cho Bác. Và thật đáng trân trọng khi tác giả mơ ước mình trở thành một trong số những cây tre mộc mạc nhưng thủy chung, “trung hiếu” hiên ngang của hàng tre Việt Nam làm đẹp cho đời theo Bác Hồ. Ý thơ thể hiện sự khiêm tốn nhưng đáng quý của nhà thơ.
Bài thơ là khúc nhạc lòng mà nhà thơ Viễn Phương đã đại diện nhân dân miền Nam gửi đến Bác. Không biết ở một cõi vĩnh hằng xa xôi, Bác có nghe thấy không?