Đoạn 2 có hai nội dung lớn. Thứ nhất là tố cáo tội ác của giặc bằng những lời lẽ mạnh mẽ, cụ thể; xem chúng như loài cầm thú, cú diều, dê chó, hổ đói. Lên án thói khinh mạn, hống hách bằng những từ ngữ giàu hình ảnh: “đi lại nghênh ngang”, “uốn lưỡi cú diều” “sỉ nhục triều đình”. Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức được hiểm họa của đất nước, nguyên nhân và nguy cơ của sự bại vong. Đoạn văn tiêu biểu cho tinh thần cảnh giác của dân tộc.
Thứ hai là bộc lộ tâm tư của vị Thống soái: Bài hịch nổi bật lên hình tượng Trần Quốc Tuấn (cái tôi trữ tình) với tấm lòng yêu nước vĩ đại. Đó là một trạng thái căm uất, hận thù sục sôi; một trái tim chứa chất cảm xúc về vận mệnh của đất nước, sự tồn vong của nhà Trần, thanh danh và số phận của tướng sĩ, nhân dân; một ý chí xả thân cứu nước, dù phải hi sinh tính mạng. Lời văn giản dị, từ ngữ giàu hình ảnh sắc thái biểu cảm (tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối).
Chủ thể trữ tình được thu gọn trong những ngôn từ có vẻ hơi ước lệ, nhưng rất thật: “Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ”. Lời văn thống thiết, hùng biện, có sức mạnh thấu đến tim gan người nghe. Đoạn văn tiêu biểu cho khí phách anh hùng dần tộc.
Đoạn 3 có ba nội dung lớn. Thứ nhất là xác lập quan hệ giữa vị thống soái và tướng sĩ, khẳng định đó là quan hệ tốt đẹp đã có từ lâu. Ra trận sống chết có nhau, lúc hòa bình vui sướng cùng hưởng, bổng lộc cùng chia sẻ.
Thứ hai là những lời phê phán, trách móc tướng sĩ: Tình sâu nghĩa nặng như thế mà không biết nghĩ suy, không biết căm tức khi thấy quân thù ngạo mạn, khinh thường người chủ của mình.
Thứ ba là lên án thú ăn chơi của quân sĩ. Những thú tiêu khiển như chọi gà, đánh bạc, rượu ngon, tiếng hát... không thể ngăn được bước tiến của quân thù. Ông chỉ cho tướng sĩ thấy cái hậu quả không thể lường được, đó là: “nước mất nhà tan, thanh danh mai một, tiếng xấu để đời”, lúc đó thì mọi người đều không còn nữa.
Giá trị của bài hịch còn thể hiện qua những đặc sắc về nghệ thuật. Nghệ thuật lập luận nổi bật nhất trong đoạn Trần Quốc Tuấn nói trực tiếp với tướng sĩ, đối tượng của bài hịch. Ở đây có sự kếp hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và tình cảm để thuyết phục tướng sĩ. Giọng văn ở đoạn trích giảng rất đa dạng và biến hóa, khi thì ôn tồn, thông thiết, nghĩa nặng tình sâu, khi thì chi tiết chua cay, trách mắng nghiêm túc...
Đặc biệt là giọng “khích tướng” thể hiện bởi lời văn làm thức tỉnh lòng tự trọng, ý thức danh dự, tinh thần thượng võ. Lời văn giàu hình ảnh, cảm xúc và sắc thái biểu hiện nhưng rất rành mạch. Nhiều đoạn có sự sáng tạo điệp ngữ, điệp từ, làm cho ý nghĩa biểu hiện thêm sâu sắc, giọng văn thêm hùng hồn, khúc chiết.
Qua đoạn trích, chúng ta thấy Hịch tướng sĩ là một văn kiện chính trị, nhưng sôi sục nhiệt huyết, tràn đầy cảm xúc của một tác phẩm văn học. Cái “tôi trữ tình” của Trần Quốc Tuấn trong bài hịch thể hiện ông là một nhà quân sự tài kiêm văn võ. Ở đây là “trữ tình hùng biện”, giàu hình tượng đầy sức hấp dẫn, đánh dấu một kiệt tác văn chương yêu nước thời đại chống quân xâm lược Nguyên - Mông.