Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Hồ Chí Minh và tác phẩm: Tuyên ngôn Độc lập

Chủ nhật - 20/08/2017 04:11
Cuối tháng 8 - 1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do.
I. TÁC GIẢ
1. Tiểu sử
- Hồ Chí Minh (1890 - 1969), quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thời thanh thiếu niên tên là Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Tất Thành; thời gian hoạt động cách mạng, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác.
- Tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2 - 9 - 1945, Tuyên ngôn Độc lập được đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
- Người khai sáng sự nghiệp cách mạng vĩ đại; đem lại độc lập, tự do cho dân tộc.
- Người đặt nền móng vững chắc cho văn học cách mạng Việt Nam.
- Người được UNESCO suy tôn “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá lớn”.
 
2. Văn nghiệp
a. Quan điểm sáng tác
- Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá - tư tưởng.
- Hồ Chí Minh chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn học. Người căn dặn nhà văn phải “miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn” hiện thực đời sống, và phải “giữ tình cảm chân thật”; “nên chú ý phát huy cốt cách dân tộc” và phải có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Người nghệ sĩ phải có sự sáng tạo. Người nhắc nhở “chớ gò bó họ vào khuôn, làm mất vẻ sáng tạo”...
- Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Người luôn tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, sau đó mới quyết định “Viết cái gì?”“Viết như thế nào?”.
 
b. Di sản văn học
- Văn chính luận: Trực tiếp phục vụ mục đích đấu tranh chính trị qua những chặng đường cách mạng. Những áng văn chính luận của Hồ Chí Minh được viết không chỉ bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo mà còn bằng cả tấm lòng yêu, ghét nồng nàn, sâu sắc của một trái tim vĩ đại. Những tác phẩm tiêu biểu:
+ Bản án chế độ thực dân Pháp (1925, tiếng Pháp)
+ Tuyên ngôn Độc lập (1945)
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)
+ Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1966)
+ Di chúc (1969)
- Truyện - kí: được viết trong thời gian hoạt động ở Pháp. Những truyện này nói chung nhằm tố cáo tội ác dã man, bản chất tàn bạo, xảo trá của bọn thực dân và phong kiến tay sai đối với nhân dân lao động các nước thuộc địa, đồng thời đề cao những tấm gương yêu nước và cách mạng. Những tác phẩm tiêu biểu:
+ Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922)
+ Con người biết mùi hun khói (1922)
+ “Vi hành”(1923)
+ Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925)
+ Nhật kí chìm tàu (1931)...
- Thơ ca: Là lĩnh vực nổi bật nhất trong sự nghiệp văn chương của Người.
+ Nhật kí trong tù (1942 - 1943; chữ Hán, 133 bài)
+ Thơ Hồ Chí Minh (86 bài thơ tiếng Việt)
+ Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (36 bài)
 
3. Phong cách
Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh độc đáo mà đa dạng. Nhìn chung, ở mỗi thể loại văn học, từ văn chính luận, truyện, kí đến thơ ca, Hồ Chí Minh đều tạo được những nét phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững.
+ Văn chính luận: Bộc lộ tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hoá; lí luận gắn với thực tiễn; giàu tính luận chiến; vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện.
+ Truyện - kí: Chủ động và sáng tạo trong bút pháp; bộc lộ rõ chất trí tuệ và tính hiện đại.
+ Thơ ca: Có phong cách đa dạng. Khi là những bài cổ thi hàm súc, uyên thâm đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật. Khi là những bài thơ hiện đại vận dụng linh hoạt nhiều thể thơ, phục vụ trực tiếp, hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
Nhìn một cách bao quát có thể thấy: dù viết về đề tài gì, thể loại và ngôn ngữ nào, tác phẩm của Hồ Chí Minh bao giờ cũng ngắn gọn, giản dị, trong sáng; mọi ý tưởng và hình tượng đều vận động hướng tới cách mạng, ánh sáng, niềm vui và sự sống.
 
II. TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
1. Hoàn cảnh ra đời
Ngày 19 - 8 - 1945, chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. Ngày 23 - 8 - 1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 25 - 8 - 1945, gần một triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ.
Cuối tháng 8 - 1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do.
 
2. Bố cục
Phần 1 (từ đầu đến... “không ai chối cãi được”): nêu lên cơ sở pháp lí và chính nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập.
Phần 2 (tiếp theo đến “...ở Yên Bái và Cao Bằng”): tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta suốt hơn 80 năm và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta.
Phần 3 (còn lại): tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, xoá bó mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam, khẳng định quyền độc lập, tự do và ý chí quyết bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
 
3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật
a. Nội dung
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử và rất có giá trị về mặt văn học.
Bản Tuyên ngôn được Hồ Chí Minh viết không chỉ để đọc trước đồng bào và một thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối tượng thế giới ở đây trước hết là đế quốc Mĩ, Pháp, Anh và bọn Tàu Tưởng. Do dó, mở đầu bản Tuyên ngôn, Người nêu ra nguyên lí chung: tất cả mọi người và các dân tộc đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Việc đưa ra nguyên lí ấy vừa tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp, vừa có tác dụng ngăn chặn một cách khôn khéo sự phản bác của chúng đối với Tuyên ngôn. Từ sự vận dụng và suy rộng ra đó, tác giả đã khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam cũng như của tất cả mọi dân tộc trên thế giới. Đây là sự khẳng định có lí lẽ, lôgic và đầy sức thuyết phục.
Dựa trên cơ sở thực tế khách quan, Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp bằng những sự thật không thể chối cãi được: Hơn 80 năm nay, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với chính nghĩa và trái với nguyên lí mà chính tổ tiên của chúng đã nêu ra. Chúng gieo rắc hàng loạt tội ác vô cùng tàn độc, áp bức, bóc lột về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội; và trong 5 năm gần dây, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật, dẫn đến thảm hoạ là hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
Trên cơ sở cuộc đấu tranh của nhân dân ta, Người đã nêu rõ rằng, Pháp đã bán nước ta cho Nhật. Do đó, ta đã chấm dứt quan hệ với Pháp; Pháp chạy, Nhật hàng nhân dân ta đánh đổ chế độ thực dân, lập nên nước Việt Nam độc lập. Vua Bảo Đại thoái vị nhân dân ta đánh đổ chế độ phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
 
b. Nghệ thuật
Bản Tuyên ngôn Độc lập đã chứng tỏ bút lực đáng khâm phục của người viết, cụ thể như: lập luận, lí lẽ, dẫn chứng sắc bén, đanh thép, chặt chẽ; luận điểm xác đáng; giọng văn hùng hồn, chứa đựng nhiều chân lí lớn; sức thuyết phục cao mà hết sức ngắn gọn, lời lẽ trong sáng, giản dị,... bản Tuyên ngôn xứng đáng là áng hùng văn trong thời đại mới.

Lê Huy Bắc

Bản quyền thuộc về Sách Thư Viện. Ghi nguồn sachthuvien.com khi đăng lại bài viết này.

  Ý kiến bạn đọc

DANH MỤC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây