Và ta có thể yêu nhau không? Điều ấy có nghĩa là sự sống rất mơ hồ. Không ai trả lời được, không dám trả lời hoặc không dám khẳng định vào cái tất yếu của tự nhiên? Đặt ra một giả định, để những câu hỏi chơi trò chơi tung hứng, từ đó Xuân Quỳnh đưa ra quan niệm về thơ ca của mình trong bài thơ “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng xem xiếc, đặc biệt là trò chơi tung hứng của các anh hề. Tất cả bay đi, có hướng hoặc tưởng như vô hướng nhưng đều trở lại đôi bàn tay tài tình của người nghệ sĩ. Cái vô hướng ấy chỉ là suy tưởng của người xem, nhưng nó đã là sơ đồ rõ ràng của nghệ sĩ xiếc. Đó là nghề nên bắt buộc và đó cũng là tài nền biến hoá khôn lường. Với Xuân Quỳnh cũng vậy, thơ đã là máu thịt, là bẩm sinh của chị. Người ta nói thơ với Xuân Quỳnh như là “người phụ nữ tất yếu phải sinh con, cây phải đơm “hoa kết trái”. Nhưng Xuân Quỳnh vẫn đặt ra một giả thiết:
“Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”
Thì:
“Cuộc sống sẽ trở thành bình yên
Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm
Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc ...”
Thơ không còn gợi sống tâm hồn nữa, nó không còn là bão, là giông với cuộc sống. Mà nó để cuộc đời lặng kẽ, bình yên trôi theo thời gian. Mọi ngày như nhau, mọi giờ như nhau, mọi phút như nhau, nhàn nhã đến chán nản và vô vị. Cuộc sống không thơ như cuộc đời hai cô gái trong “Toả Nhị Kiều” của Xuân Diệu hay buồn tẻ như “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Sống mà không biết mình có đang tồn tại hay không và đang sống vào khoảnh khắc thời gian nào, bởi:
“Trận mưa xuân dẫu làm ướt áo
Nhưng lòng em còn cảm xúc chi đâu..
Mùa đông về quên nỗi nhớ nhau
Không xôn xao khi nắng hè đến sớm ...”
Sự rung cảm tinh tế đã chết rồi ! Khi còn thơ, nghĩa là khi tâm hồn ta còn nhạy cảm, ta có thể cảm thấy cái ngái nồng, lành lạnh của hơi xuân. Ta có dự cảm trước bước đi rõ rệt của thời gian. Hay đó là một chút “xôn xao”, một thoáng nhớ nhung nhưng da diết đến nao lòng của hạ, của đông. Nhà thơ Chế Lan Viên đã có sự so sánh rất tài tình “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”. Nỗi nhớ ấy tất yếu như quy luật khách quan, nó cùng nhau đến và song song tồn tại. Và ngay cả khi ra đi, nó cũng cùng nhau. Nhưng có còn gì đâu khi em không làm thơ nữa “Mùa đông về quên nỗi nhớ nhau”, “Lòng em có còn cảm xúc chi đâu”. Hai chữ “chi đâu” đều là thanh bằng mà sao sắc lạnh, thấm thía. Xuân đã về rõ rệt, đã để lại vết tích trên áo, đã thấm lên da thịt. Nhưng em lạnh lùng “còn cảm xúc chi đâu”. Câu thơ như rũ bỏ, hay sự quên của trí nhớ. Không có bây giờ và cũng không nhớ cả ngày xưa nữa ư? Không phải ! vẫn nhớ đó chứ !. Nhưng lại nhớ rằng mình đã mất đi rồi những dự cảm tinh tế sâu sắc khi không còn làm thơ nữa. Đó là sự chua xót đến chát chúa, nghẹn ngào.
Đã chết đi rồi cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Và ta nhận ra một điều, chính thơ làm ta cảm nhận, làm ta có cái nhìn, có cuộc sống phong phú, tinh tế, sắc nhạy trước thế giới tự nhiên.
Và rồi: “Chuyện hôm nay sẽ trở thành kỷ niệm”. Nhưng người ta không thể sống bằng kỷ niệm. Lúc ấy ta chỉ là một con người hoài cổ, đứng trên nó và sống với nó cũ kỹ và lạc lõng. Ta trôi trong dòng chảy của thời gian mà sống với một dòng chảy tưởng tượng. Ta sống ảo, nghĩa là ta yêu ảo, nghĩa là ta không tồn tại trong mắt mọi người và ngay cả trong ý thức đâu đó còn sót lại của ta.
“Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”, tâm hồn em sẽ chai sạn, khô cứng, thờ ơ, bàng quan với tất cả:
“Gió thổi nơi này không lạnh lối nơi kia
Lời nói tâm tình trở nên nhạt nhẽo”...
Bỗng nhiên em cảm thấy rằng, người yêu người là vô vị, là nhạt nhẽo, là vu vơ, nực cười. Cái mà giá trị cao cả nhất của văn thơ, cái mà được xem như chân lý vĩnh hằng trở thành tầm thường đối với em. Vậy em có còn gì không? Hỡi tâm hồn nghèo nàn, cô độc kia?.
Em không có nỗi khổ, em không có kinh ngạc, không có lí tưởng và khát vọng:
“Em không còn thấy nhớ những sân ga
Những nơi đã đi, những nơi chưa hề đến”
Sân ga là vạch nối, là bến đợi, bến đỗ của những chuyến đi xa, là vạch nối nghĩa là quan trọng, là bến đợi nghĩa là có thời gian, là bến đỗ nghĩa là khắc đậm trong kí ức. Nhưng “em không còn thấy nhớ”. Đây không còn là cái quên của vô thức mà là của tâm thức. Và cũng không đơn giản là quên mà đã đánh mất ý thức nhớ tự nhiên và bắt buộc. Không tồn tại khát vọng ỏ đây nữa ! Nơi đã đi là quá khứ. “Nơi chưa hề đến” là tương lai. Thực tại đã mất, quá khứ nhạt nhoà, tương lai mù mịt. Em sống có cái gì? Mục đích và lí tưởng ở đâu? Lí do để em tồn tại? Tất cả đều nằm trong chữ “nhưng, chẳng, không” lạnh lùng.
Em không còn yêu em nữa. Vậy làm sao em có thể yêu anh:
“Nghe tiếng con tàu em không thể hiểu
Tấm lòng anh trong mỗi chuyên đi xa ...
Khát vọng anh dẫu nhoà trong sông biển
Sóng xô bờ chẳng rộn đến tâm tư”
Từ “không thể hiểu”, đến không “nhớ” , và đến bàng quan là một hành trình đi đến tuyệt vọng. Từ “tấm lòng anh” cái xa nhất, đến những kí ức, khát vọng “nơi đi, nơi đến” gần em hơn một cách cụ thể, và chính em “tâm tư” mơ hồ đã là một sự bất lực nghiệt ngã. Con sông “dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ” ngày xưa em viết, nay không đủ sức gợn một chút dư âm kí ức nào trong cõi hồn đang giá lạnh của em:
“Âm điệu ấy chẳng còn gieo tiếng nhạc
Chất men nào làm em choáng váng
Cũng phai dần theo những năm tháng xa”
Thơ phải làm nên nhạc, nhạc chính là chất men, là dư ba của tâm hồn thi sĩ. Sự đa tài, mẫn cảm, tinh tế ngày xưa của em nồng nàn đến choáng váng, giờ cũng phai lạt. Tất cả đều đi từ có đến không, từ nồng nàn đến lạt lẽo, từ vĩnh cửu đến hữu hạn, từ lãng tử đến thực tế lạnh lùng:
“Hết ngọn lửa lạ lùng, thôi màu mây phiêu lãng”
Thơ chết trong trái tim em, là chết trong ánh mắt, cái nhìn:
“ơi trời xanh - ta trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em xanh”
Bầu trời là cái khôn cùng, bao la, rộng lớn. Nhưng ngày xưa nó hữu hạn và có đáy trong em. Em thâu giữ nó, làm chủ nó bằng tâm hồn rộng mở của em, nay em bất lực “ơi màu xanh - ta trả lại mi”. Không biết “trời xanh, nay lại không xanh. Mắt em không xanh thực, nay lại xanh. Tất cả đều hoán vị đổi ngược “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa?”.
Thơ là cuộc sống, là tất cả những gì nhỏ nhặt xung quanh Xuân Quỳnh. Chị giả sử “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”. Nhưng ngày mai là ngày nào cụ thể trong tương lai của chị. Tại sao không phải là hôm nay hay ngày xưa. Điều ấy có nghĩa là bây giờ vẫn làm thơ, và biết đâu ngày mai là cái ngày mà tất cả mọi sinh vật đều đi đến. Ý thức được tương lai, và đang làm việc trong thực tại nghĩa là đang sống.
Xuân Quỳnh lo lắng cho tương lai thì khát vọng được sống, được làm thơ lại càng mãnh liệt. Chị cảm nhận được những tinh tế của sự vật, và bởi thế chị thấy cuộc sống này quá đẹp, nên sợ khi phải đánh mất nó. Đôi khi sự lúng túng này lại là một ngẫu hứng của chất lãng tử nghệ sĩ. Biết rất sợ đấy mà vẫn đánh đố, vẫn chơi trò. Xuân Quỳnh khẳng định quan niệm thơ ca của mình bằng phương pháp phản chứng. Đó là cách làm nổi bật vấn đề, vai trò của vấn đề. Cuộc sống sẽ là vô nghĩa nếu ta thiếu tình yêu, sự tinh tế, lòng nhân ái đối với thế giới xung quanh. Các yếu đuối của thơ cũng chứa sức mạnh của con người, đó là khát vọng. Tình cảm mềm yếu, sâu sắc nhưng lí tưởng rõ ràng, bền vững. Ta tưởng đó là sự mâu thuẫn, nhưng nó lại hoà quyện, bổ sung cho nhau. Đạt được sự cân bằng ấy là đạt được cái chất thơ nhất. Chị ý thức rằng mất chất thơ ấy sẽ chết, nghĩa là không bao giờ mất. Đó là cái mà Xuân Quỳnh tìm kiếm trong giả định “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”.
Thơ Xuân Quỳnh nhẹ nhàng, hồn hậu, tự nhiên mà lại rất sâu sắc, triết lý. Kinh nghiệm sống và trái tim nồng nàn đã đưa chị trở thành thi nhân của Việt Nam. Người nghệ sĩ ấy luôn đi tìm cái đẹp trong những khám phá mới, và ta đi tìm cái đẹp trong người nghệ sĩ ấy.