Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Hãy phân tích các tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Kiều và một số bài thơ của Hồ Xuân Hương để làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại.

Thứ sáu - 04/11/2016 06:55
Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót, trân trọng và tập trung viết về họ - đó là người phụ nữ. Họ là hình tượng tiêu biểu cho những số kiếp bi đát của những con người trong cuộc đời bế tắc. Họ là những con người có đủ tài sắc, có đức hạnh thanh cao nhưng lại bị cuộc đời vùi dập, xô đẩy. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này, nổi bật nhất phải kể đến những sáng tác thuộc trào lưu nhân đạo thế kỉ XVII - XVIII, những tác phẩm của những tác giả nổi tiếng như: Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Du với Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương với Làm lẽ, Bánh trôi nước... Đó là những tác phẩm mà đến nay vẫn như còn vang vọng tiếng kêu cứu não nùng đau đớn của những con người quằn quại trong vũng lầy của xã hội cũ.
“Hồng nhan đa truân” - câu ấy có lẽ lại là một lời nhận xét rút ra từ hiện thực cuộc sống của người xưa. Có lẽ lời nhận xét ấy cũng phần nào đúng với thực tế vì trong hầu hết các tác phẩm, những người phụ nữ bất hạnh lại là những người phụ nữ đẹp. Đấy là những người có vẻ đẹp thuần hậu, dịu dàng của người phụ nữ nông thôn như nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, có “tư dung tô"t đẹp” hay vẻ đẹp khỏe mạnh tràn đầy sức sống của một cô gái đương độ xuân sắc với nước da trắng và thân hình khỏe mạnh:
 
Thân em vừa trắng lại vừa tròn.
(Hồ Xuân Hương - Bảnh trôi nước)

đến những người con gái có sắc đẹp khuynh nước khuynh thành như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
 
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành...
 
Vẻ đẹp của nàng làm lu mờ tất cả những gì được gọi là thanh tao nhất, đẹp nhất của thiên nhiên: đôi mắt trong thăm thẳm như làn nước mùa thu, nét mày thanh tú mơn mởn như rặng núi mùa xuân. Và vẻ tươi thắm của hoa, dáng vẻ yêu kiều mềm mại của liễu cũng phải “hờn”, phải “ghen” với người con gái tuyệt sắc đó.
 
Không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài, họ càng có đủ tài năng đức hạnh. Đó là Vũ Nương tính thùy mỵ, nết na, giữ gìn khuôn phép: chồng đi lính xa nhà, nàng ở nhà nuôi con phụng dường mẹ già và chung thủy chờ chồng. Đó là nàng Kiều với lòng hiếu thảo cao cả. Nàng sẵn sàng hi sinh thân mình để cứu gia đình thoát khỏi cơn nguy biến, chấp nhận mọi sóng gió của cuộc đời.
 
Với nhan sắc và phẩm hạnh cao quý như thế, đáng lẽ họ phải được sống một cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại rơi vào họ. Nỗi đau đớn nhất của người phụ nữ là gia đình tan vỡ và họ phải chịu nỗi giày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Nỗi oan nghiệp đã đổ ụp xuống đầu Vũ Nương. Khi chồng nàng trở về, chỉ vì lòng ghen tuông mù quáng, nghi vợ đã có tư tình, bèn đuổi nàng đi, để nàng nhục nhã đến nỗi phải tìm đến với cái chết. Đến khi chồng nàng hiểu ra thì đã quá muộn màng. Ước mơ lớn nhất của nàng là một cuộc sống bình dị, nhưng hạnh phúc mãi mãi không bao giờ trở thành hiện thực đối với nàng.
 
Với Kiều, người con gái mà “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, cuộc đời nàng còn gian truân, lận đận hơn nữa. Mối tình tuyệt đẹp giữa nàng và Kim Trọng - một văn nhân hào hoa, phong nhã - vừa mới chớm nở cũng là lúc nàng đau đớn dứt bỏ với tiếng kêu như xé lòng:
 
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
 
Chỉ sau một cơn gia biến, vì sự vu oan trắng trợn của thằng bán tơ, vì “ba trăm lạng việc này mới xong” mà nàng trở thành một món hàng để cho bọn buôn thịt bán người cò kè ngã giá:
 
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
 
Người đọc đã không nén được xúc động trước nỗi đau khổ dằn vặt của người con gái liễu yếu đào tơ ấy: “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Nhưng đó mới chỉ là mở đầu cho cả những chuỗi ngày đau khổ nhất của cuộc đời nàng. Trong những chuỗi ngày ấy, nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần. Từ tay Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, vốn nổi tiếng là mụ chủ thanh lâu. Là con gái của gia đình Vương viên ngoại “gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung” vốn có dòng dõi cao quý, là một cô gái con nhà gia giáo, Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng đã chịu bao trận đòn tàn khốc với Tú Bà, sau cùng Tú Bà lại bày mưu thuê Sở Khanh lừa nàng để buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Bắt đầu những ngày ảm đạm nhất trong cuộc đời nàng Kiều. Từ một cô gái trinh trắng, đức hạnh, nàng đã trở thành món đồ cho bọn khách làng chơi. Nàng xót xa thay cho số phận của mình:
 
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
 
Không phải không có lúc dịp may đến với nàng. Nhưng đó chỉ là một chút ánh sáng lóe lên rồi chợt tắt ngấm khiến cho cuộc đời đen tối của nàng tưởng chừng hừng sáng nhưng rồi lại càng tối tăm, mịt mùng hơn. Ấy là khi nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, ái mộ tài sắc của nàng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Nhưng nàng lại rơi vào tay vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư, một tiểu thư con quan, lại có thừa mưu mô xảo quyệt. Nàng đã bị tra tấn thật tàn nhẫn:
 
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.

 
Hoạn Thư đã bày ra một cảnh thật ngang trái. Ngay trong đêm hàn huyên của hai vợ chồng mụ, nàng đã phải đánh đàn, hầu rượu, mua vui cho cả hai vợ chồng, để cho nàng đau đớn cả cõi lòng, “người ngoài cười nụ” mà “người trong khóc thầm”.

Đau khổ đến cùng cực, nàng đã định nương nhờ cửa Phật nhưng món nợ trần gian còn mãi đeo đẳng nàng. Nàng lại rơi vào lầu xanh lần thứ hai và lại được Từ Hải - vị anh hùng của cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình cứu ra khỏi lầu xanh. Cuộc hôn nhân của hai con người “trai anh hùng, gái thuyền quyên” đó đã tưởng được bền lâu. Cho đến khi công thành danh toại “triều đình riêng một góc trời”, đã báo ân, báo oán, nàng lại rơi vào cái bẫy hiểm độc của Hồ Tôn Hiến khiến cho nàng vô tình tiếp tay cho kẻ giết chồng mình. Lúc Từ Hải chết cũng là lúc Kiều tắt hết niềm hi vọng: “Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi”. Ngay sau cái chết của chồng, nàng bị ép gảy đàn mua vui cho chiến thắng của chúng. Tên tổng đốc Hồ Tôn Hiến bỉ ổi làm nhục nàng và khi chợt tỉnh hắn đã không ngại ngần gả nàng cho một viên thổ quan. Lần này nàng tự tử và lại được cứu thoát. Nàng may mắn trở về gặp gia đình, gặp lại người tình xưa nhưng đối với nàng, cuộc sống lứa đôi không còn ý nghĩa. Đó là niềm an ủi cuối cùng của nàng Kiều như một lời nhận xét của một nhà phê bình văn học: Đối với những người phụ nữ bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những góa phụ, thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém. Hồ Xuân Hương có lần đã chua xót thốt lên:
 
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
(Làm lẽ)
 

Người con gái trong xã hội phong kiến không được quyền định đoạt bất kì một vấn đề gì. Thông qua hình tượng chiếc bánh trôi bập bềnh, trôi nổi, Hồ Xuân Hương đã nói đến cuộc sống cũng như đức hạnh của người phụ nữ:
 
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(Bảnh trôi nước)
 

Như chiếc bánh trôi, thân phận người phụ nữ tùy thuộc vào bàn tay của người khác. Họ đành cam chịu số phận đã xếp đặt sẵn và cố giữ lấy cho mình một phẩm chất tốt đẹp, đó là tấm lòng kiên định, trong sáng.
 
Phản ánh những bi thảm của người phụ nữ, các nhà văn nhân đạo không thể giấu nổi tình cảm xót xa, đau đớn của mình. Nhiều khi tác giả đóng vai trò người ngoài cuộc nhưng cũng không thể bộc lộ cảm xúc:
 
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
 
Với nàng Kiều, người con gái đã được coi là biểu tượng của mọi nỗi đau khổ, Nguyễn Du dành cho tình cảm đặc biệt. Ông cũng nức nở như nàng khi mối tình đầu của nàng tan vỡ, cũng đau đớn khi bao làn roi quất lên da thịt nàng, cũng bao đêm cùng nàng thao thức: “Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh”. Tình yêu thương con người đã khiến ông vượt lên chính bản thân mình. Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, ở một chừng mực nào đó, ông cũng là đại diện cho tầng lớp quý tộc phong kiến nhưng ông đã thẳng thừng lên án bọn quan lại, những kẻ đã gây nên cuộc đời đau khố cho nàng Kiều. Đối với những phường buôn thịt bán người, ông chủ trương trừng trị đích đáng tội ác của chúng ngay tại kiếp này chứ không phải chờ đến kiếp sau.
 
Hồ Xuân Hương và một số nhà thơ khác cũng có thái độ tương tự. Chưa bao giờ cuộc sống gia đình và hạnh phúc riêng tư được đề cập đến nhiều như ở giai đoạn này. Thông qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát hạnh phúc. Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh phúc, được sống trong mái ấm gia đình của người phụ nữ. Mặt khác bà cùng lột trần bộ mặt thật của những kẻ được gọi là văn nhân, tài tử trong xã hội phong kiến. Chúng mang bộ mặt đạo đức giả luôn tỏ ra cao đạo nhưng thực chất là những kẻ dâm ô nhất. Lên tiếng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời các nhà văn, nhà thơ cũng lên tiếng đả phá chế độ đa thê đã từng chôn vùi cuộc sống của nhiều cô gái trẻ. Đó là dấu hiệu của sự rạn nứt ý thức hệ phong kiến nặng nề đã tồn tại từ bao đời nay.
 
Viết về hình ảnh người phụ nữ là một sự tiến bộ vượt bậc của các tác giả văn học cổ Việt Nam. Khi phản ánh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, các nhà văn đã không khỏi băn khoăn và tìm đến cách lí giải căn nguyên của những nỗi đau khổ đó. Tất nhiên sống trong xã hội còn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những giáo lí phong kiến, việc lí giải những nỗi khổ của người phụ nữ không tránh khỏi những sai lệch. Nguyễn Du đã lí giải nỗi đau khổ của nàng Kiều là bởi “Tài mệnh tương đố” vì “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, “ông trời”, một thế lực tối cao vô hình vốn ghen ghét đối với những người đàn bà đẹp. Nhưng bằng hiện thực tác phẩm, Nguyễn Du đã lí giải khác hẳn. Những kẻ đê tiện, bỉ ổi, từng hãm hại cuộc đời nàng Kiều đã hiện lên rất thực, rất sinh động. Từ tên bán tơ giảo hoạt, mụ Tú Bà buôn thịt bán người hay viên quan xử vụ kiện nhà họ Vương ăn đút lót “Có ba trăm lạng việc này mới xong” tới tên tổng đốc trọng thần dâm ô, bỉ ổi Hồ Tôn Hiến ... cả xã hội hỗn loạn đó đã vùi dập cuộc đời nàng Kiều chứ không phải ai khác. Một thế lực tuy vô hình nhưng vô cùng tàn bạo cũng là nguyên nhân dẫn đến khổ đau của người phụ nữ, đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo điên mọi sinh hoạt của xã hội. Chẳng thế mà đã bao lần nhà thơ đau đớn thốt lên:
 
- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
- Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong.

 
Những hủ tục phong kiến như nam quyền, chế độ đa thê cũng tạo nên khổ đau cho người phụ nữ. Đứng trước nỗi đau đớn ấy, nhiều nhà văn đã không thể né tránh trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Văn học thời kì này đã góp cho nền văn học Việt Nam một trào lưu văn học nhân đạo cao cả với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó cũng là khởi đầu cho mọi trào lưu nhân đạo sau này.
 
Những tác phẩm văn học đó cho ta thấy lại cả một quãng đời đau thương, tủi nhục của cả một tầng lớp người xưa trong xã hội và nỗi cảm thương sâu sắc đối với họ của những nhà văn nhân đạo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính cần được gìn giữ và lưu truyền.

Bản quyền thuộc về Sách Thư Viện. Ghi nguồn sachthuvien.com khi đăng lại bài viết này.

  Ý kiến bạn đọc

DANH MỤC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây