Nói phương Đông, nhưng thực ra chúng tôi chỉ nói về người Tàu và người mình. Thật thế, trước khi chưa thâu vào cái học thuật của phương Tây, người Tàu và người mình chỉ biết học với sách mà thôi. Đức Khổng Tử khuyên học trò ngài đọc Kinh Thi, ngài bảo rằng: “Đọc Kinh Thi thì biết được nhiều cái tên của cỏ cây, chim muông”. Sách Minh Mệnh chánh yếu chép lời đức Thánh Tố phán cùng ông Phan Bá Đạt, Tham tri bộ Lễ, rằng: “Những cái tên của cỏ cây, chim muông từ trước đến giờ cứ tuần tập mà kêu, phần nhiều chưa được rõ rệt. Ngày nay phải khảo cứu qua một bận để kêu cho đúng tên...”.
Rất đỗi thánh như đức Khổng Tử mà khi đọc Kinh Thi còn chỉ lấy sự biết tên các giống cỏ cây, chim muông làm mãn nguyện, thì vua Minh Mệnh nhà ta, cần kêu tên nó cho đúng cũng đã thông minh và có chí nguyện lớn lắm rồi. Thực ra thì về cỏ cây, chim muông biết được đến cái gì của nó mới là có ích, mới là hữu dụng, chớ chỉ biết cái tên thì có làm gì?
Học với sách, chỉ lấy sách làm cái đối tượng nghiên cứu, từ đức Khổng Tử, ngài đã dạy cho chúng ta như vậy rồi. Chúng ta cứ vậy mà học luôn luôn đến hơn hai ngàn năm...
Trải hơn hai ngàn năm, thánh hiền, sử nho, nói vô phép, chỉ là con mọt sách, chẳng chịu cho sự trí thức của mình trực tiếp với mọi vật tự nhiên, đừng trách cái ngày hai văn hóa gặp nhau mà rồi phương Đông phải bắt mặt làm học trò phương Tây là đáng!
Học giới phương Tây không phải là không cần dùng cách. Có lẽ sách của họ lại còn nhiều hơn của ta nữa, nhưng cốt một điều kẻ học ở đó còn học rộng ra bên ngoài sách, không chỉ bo bo với sách mà thôi.
Bên ta tương truyền đời thượng cố, chỉ một mình vua Thần Nông lấy lưỡi nếm trăm thức cỏ mà phát sinh ra các vị thuốc để trị bệnh. Một hôm nhân lột vỏ cây, gặp hai con độc trùng, ông ta mỗi tay bắt lấy một con rồi, bỗng lại thấy thêm một con nữa. Con này có hình trạng lạ, ông cố bắt cho được, bèn bỏ con bên tay phải vào miệng để bắt nó. Không ngờ con trùng trong miệt vội xịt nước cay của nó vào trong lưỡi ông, làm ông chịu không được phải thả ra lập tức. Thế là con này với con thứ ba đều xảy ra. Chỉ có thế mà nhà học giả nhớ tiếc suốt đời.
Cái học thuật của phương Tây, tức là cái học thuật trọng về sự nghiên cứu tự nhiên ấy, khi nó truyền sang bên ta rồi, ta cũng lại cứ trong sách của họ mà học theo, ấy thật là điều đáng cho ta tỉnh ngộ và hối cải.
Ta cũng có vạn vật ở chung quanh mình, khi đọc sách xong, sao ta không chú ý đến? Giữa chúng ta vừa mới có kẻ nghiên cứu thứ lá vối, trồng thử thủy tiên, sao lại cả lũ xúm nhau cười?
À, ra con Rồng cháu Tiên là giống chỉ biết đọc sách thôi, chỉ quen với sự học trong sách thôi, ai bỏ sách mà học ra ngoài tức là một việc chướng mắt hay một việc điên rồ, phải bị những ngón tay chỉ vào như chỉ thẳng ở lỗ!
Không, trong đám mười người học với sách, phải có một người học với tự nhiên được. Có thế học thuật mới mỗi ngày một mới.
“Con chuột đồng hóa làm con chim cút” (điền thử hóa vi như), “con se sẻ vào trong nước lớn hóa làm con nghêu” (tước nhập đại thủy vi cáp): chính Kinh Lễ dạy chúng ta như vậy đó mà đã gần ba ngàn năm nay, chúng ta vẫri nghe theo, chưa có ai chứng nghiệm ra thử là nói thật hay nói láo. Ấy chỉ vì chúng ta cứ học trong sách mà không biết kinh nghiệm ra ngoài.
Những cái tri thức về khoa học mà chúng ta đã nhặt được ở nhà trường ngày nay, nếu không nhờ thực nghiệm ra giữa vạn vật thì nó cũng sẽ chẳng khác gì những cái tri thức đã nhặt được ở Kinh Lễ, Kinh thi ngày xưa vậy.