Nếu để ý kỹ thấy có một điều rất lạ: Trong các văn phẩm Thạch Lam, bóng tối hiện diện tràn lan với tất cả các sắc độ đậm nhạt khác nhau của nó. Hãy chưa kể đến Hai đứa trẻ, ở rất nhiều câu chuyện, và có thể nói là hầu hết, bóng tối lại cứ có mặt, cứ lại thấy các nhân vật âm thầm trong bóng tối cả. Tối ba mươi. Trong bóng tối buổi chiều, toàn bóng tối đã hắn rồi! Ở những truyện khác, bằng một cách hết sức tự nhiên, các nhân vật của Thạch Lam thể nào cũng lại có lúc ăn nói, nghĩ ngợi, đi về trong bóng tối (Người lính cũ, Đói, Người đầm, Tiếng chim kêu, Cô hàng xén.,.); hoặc trong bóng tối ở một sắc độ nhẹ hơn là những bóng rợp (Dưới bóng hoàng lan), bóng trăng (Nhà mẹ Lê), bóng đèn (Người bạn trẻ) v.v... Nếu nhìn sang các nhà văn khác cùng thời, đương nhiên nhiều khi họ cũng dùng khung cảnh đêm tối, nhưng rõ ràng là không nhiều, Vả lại đêm tối của họ chỉ thuần là việc tuân theo thời gian tự nhiên, chảy trôi tuần tự hết ngày sang đêm, là chuyện thường tình, không hàm một nghĩa gì đặc biệt. Ví như Nam Cao chẳng hạn, ngoài chuyện trăng sáng, Nửa đêm — thời gian không gian đêm chỉ có ý nghĩa vật lý - còn lại hầu hết các truyện các, câu chuyện cứ xảy ra ngang nhiên giữa thanh thiên bạch nhật, các nhân vật cứ cọ sát, sôi sục, căng thẳng, nhức nhối, quyết liệt. Vậy thì bóng tối trong văn Thạch Lam hẳn là có duyên cớ và mang một ý nghĩa gì đặc biệt...
Khung cảnh của Hai đứa trẻ là một ga xép trong một đêm trôi đầy bóng tối mênh mông, quạnh quẽ mà khởi đầu là tiếng trống thu không báo một ngày tàn, kết thúc là vào lúc rất khuya “đêm trong phố tịch mịch và đầy bóng tối”. Trong cái đêm trôi ấy, các nhân vật hiện ra như những vụn đời bé nhỏ, âm thầm, yên lặng nhiều hơn là cử động, nếu có cử động thì cũng khẽ khàng, se sẽ, chầm chậm, “từ từ” (hai chị em Liên những cử chỉ “gượng nhẹ”, “cúi nhìn”, “lặng ngước mắt lên”, “khẽ quạt”, “gượng nhẹ ngồi”...); và nghĩ nhiều hơn nói, nếu có nói cũng nhỏ nhẹ, “chậm rãi”, “bâng quơ”, “vẩn vơ”, nói để cho có chuyện, ơ hờ, chứ cũng chẳng cần phải nói. Các nhân vật được lược giản tối da, được thu gọn lại hết sức chỉ còn tựa hồ như những bóng thầm trong một bóng đêm rộng lớn vô cùng. Không chỉ có con người, mà tất cả đồ vật cũng hiện lên cỏn con, bé mọn: những chiếc đèn con, cái chông nan con, bếp lửa con, con đom đóm, chấm lửa đi trong đêm và trên cao là hàng ngàn vì sao li ti xa hút. Khung cảnh xung quanh (thời gian, không gian, tiếng động) cũng lại chìm dần, rỗng ra, êm đềm lặng trôi, xa vắng: trống thu không “từng tiếng vang ra”, “chiều êm ả như ru”, “bóng tối ngập đầu”, “đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”, “đồng ruộng mênh mang yên lặng”, “chỉ còn đêm khuya, tiếng cầm canh và chó cắn”, “gió đã thoáng lạnh”, “đêm trong phố tịch mịch và đầy bóng tối”...
Trong cái thế giới lặng thầm và có nguy cơ chìm khuất ấy liệu có gì khuất lên, níu giữ được không? Một bà cụ “hơi điên” đột nhiên xuất hiện, vang lên tiếng cười “giòn giã”, “khanh khách” trong một chốc lát, rồi lại thản nhiên “đi dần vào bóng tối”, không để lại dấu vết gì. Lại nữa tiếng rít của đoàn tàu “rầm rộ đi tới” rồi “vụt qua”, và ngay lập tức “xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Đây là tiếng vang của sự sống cuối cùng trong đêm còn xót lại để rồi lịm hẳn. Nó là sự bấm nút quan trọng khiến cho nhân vật ngồi nhớ, chạnh lòng, chạnh nghĩ và mơ tưởng. Như thể nốt nhấn trong âm hưởng đêm trôi, hai tiếng động - một của người, một của con tàu, đã làm cho bóng đêm tới chỗ ngự trị hoàn toàn, chiếm lĩnh hoàn toàn. Các nhân vật lọt thỏm vào đêm mênh mông, hiu quạnh, tựa như viên sỏi rơi xuống mặt hồ tịch mịch, không một tiếng vang, chỉ còn lại vài vòng sóng đủ để nhận biết là còn tồn tại. Liên, An, chị Tí, bác Siêu, bố con bác Xẩm, cứ thế, như những bóng thầm hòa lẫn vào bóng tối, lặn chìm, khuất dạng vào bóng tối, thuận theo bóng tối mà mất hút. Nhờ thế câu chuyện phả vào ta một niềm thương cảm mênh mông, một nỗi bâng khuâng dìu dặt, một nỗi lo lắng mơ hồ... Hết thảy cứ miên man, quyện lấy, ảm lấy tâm hồn độc giả.
Có phải không, trong đêm người ta được sống với mình, được sống là mình nhiều nhất và sâu sắc nhất. Như một tập tính tâm linh ẩn dụ, mê hoặc, Thạch Lam cứ để bóng tối tràn ra đầu ngòi bút. Tạng của ông không thích những cái gì sáng trắng, chói gắt, sinh sự - sự sinh ồn ĩ.
Hẳn là trong một đêm khuya vắng lắm, cặp mắt u buồn nhiều bóng tối của Thạch Lam cứ tư lự thả vào một khoảng không vô định, rồi bỗng ông run rẩy với từng dòng của Hai đứa trẻ một mạch đến con chữ chót cùng. Bóng của đời ông, của tâm hồn thanh tao và yếu đuối hợp vào bóng tối trong trang viết đã sinh thành Hai đứa trẻ như một bài thơ ngần rung, đẹp, với nhiều thương cảm, bâng khuâng...