Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt nhất là chương Hạnh phúc của một tang gia.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến bực nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc?! Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng suy ngẫm kĩ trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chận thực, hợp lí.
Ở đám tang cụ Tổ, ai cũng vui như tết con cháu, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết.,, cũng thấy đây là một dịp may hiếm cổ để mình thỏa mãn một nguyện vọng, hay một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lựu, quý phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.
Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, dứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Ngược lại, cái chết của cụ đã đem đến cho họ một niềm vui to lớn không che giấu nổi – một hạnh phúc: Cái chết đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm cũng vui sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phổ, gọi phường kèn, thuê xe đám tang… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ rất hào hứng, phấn khởi vì cậu có dịp trổ tài và sử dụng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Vãn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ dược mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mẩn trắng viền đen… để quáng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ.
Còn người con trai của cụ Tổ sung sướng vì một lý do khác lớn hơn. Cụ Cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kìa kìa.
Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có nổi một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) thì khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một sổ tiền vài trăm nghìn đồng. Chính ông không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế! Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt, xuyên suốt hoạt cảnh này.
Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đi đưa nghiêm nghị thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tại, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-xích…
Đám ma trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typhono. Đó là cô Tuyết với bộ y phục ngây thơ khá hở hàng với nét mặt cố tạo một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn ảo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn đám ma. Đó là bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…
Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến dám bạn bè, quan khách của tang chủ, những kẻ đi đưa đám không phải để chia buồn mà cố khoe các thứ huy chương, mề đay đeo đầy ngực và các kiểu râu ria tân thời nhất. Hoặc là đám phụ nữ quí phái, đám giai thanh gái lịch đang đeo đuổi, học đòi phong trào Âu hóa, vừa, đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những điều đó bàng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma .Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn. lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài củng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!
Đắng sau cái phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh vô lí, của bọn người giàu sang, hãnh tiến và vượt lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lí(a mình và lừa người mà xã hội thời ấy mặc nhiên công nhận.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức lòe loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giông nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tố lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mây trăm con người và gây ân tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo gõ mõ. Điều này khiến cho cụ Phán bà càng thêm sung sướng: giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi, và cô Tuyết người yêu của hắn cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Nó được dàn dựng như một vở kịch mà bàn tay đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn. Cậu Tú Tân bắt từng người phải chông gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng. Ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.
Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật. Ồng chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động hay như một bức biếm họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự cho là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của nó.