Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (Bài 3)

Chủ nhật - 14/12/2014 21:44
Độc tiểu thanh kí là tấm lòng của Nguyễn Du với một người con gái có tài năng, có sắc đẹp nhưng bị trà đạp lên nhân phẩm và đạo đức, bị coi thường. Đó là lòng yêu, sự cảm thông, là nỗi đau, nôi sầu vạn kỉ, là tiếng lòng tê tái xót thương của một người tài tử dành cho người nghệ sĩ.
Mở đầu bài thơ là câu thơ miêu tả vể cảnh vườn hoa bên Hồ Tây giờ đã trở thành một bãi hoang rồi. Câu thơ thoảng chút chua xót nhẹ nhàng: 
 
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang.
 
Bằng ngòi bút sắc sảo của mình tác giả đã tạo nên một vườn hoa với sắc hương và hình dáng đẹp. Cái đẹp chi phối, choáng ngợp tâm hồn ta. Một nét ngỡ ngàng trước vẻ diệu kì của thiên nhiên, tạo hóa. Trong bộn bề lo toan đời thường, ta vẫn dành một chút thời gian để thưởng thức và tận hưởng hương thơm. Cái đẹp ấy tưởng chừng là sự trường tồn và vĩnh cửu. Thế nhưng, trải qua thời gian, cái đẹp lụi tàn theo năm tháng. Vườn hoa bình yên, êm ả đã trở thành một bãi hoang phế, trơ lụi tiêu điều. Nó chỉ để lại một chút dấu ấn trong lòng người mà thôi! Nuối tiếc, thương xót mà pha chút ngậm ngùi. Nguyễn Du đã mượn sự biến đổi của thiên nhiên mà ngụ ý sự biến đổi khôn lường của cuộc đời, con người. Đó là sự ý thức về cái vô hạn của trời đất với cái hữu hạn của con người. Nó gợi lên sự tàn lụi không thể nào tránh khỏi cho một kiếp người, cho hồng nhan. Và Nguyễn Du đau xót! Câu thơ không chỉ có ý nghĩa cho sự mở đầu, giới thiệu sự việc mà chính là cảm xúc của nhân vật trữ tình:
 
Thổn thức bên song mánh giấy tàn.
 
Đứng trước những dấu vết còn lại của người con gái ấy, bên những mảnh thơ tàn của một tài hoa bị vùi dập, Nguyễn Du cảm nhận và thổn thức đau thương. Ông muốn lưu giữ tất cả, níu kéo tất cả nhưng cuối cùng chỉ còn là sự tàn tạ. Cái để gợi cho lòng người thi sĩ thì đâu có nhiều mà tình thì mênh mông, vô hạn, Nguyền Du đã khóc Tiểu Thanh - khóc nàng qua. một tập sách nhỏ. Lòng Nguyễn Du mênh mông mà sâu lắng quá! Khoảng cách của không gian và thời gian không thể ngăn cách, cản trở tấm lòng của ông. Vượt qua tất cả, Nguyễn Du đã tìm đến cái tài, cái đẹp và trân trọng nó:
 
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
 
Nguyễn Du đã hiểu và thông cảm với Tiểu Thanh, nỗi oan nàng phải gánh chịu là nỗi oan của thế kỉ, nỗi sầu vạn kỉ. Dưới suối vàng, Tiểu Thanh chắc còn đau đớn, u uất... Nồi đau ai oán của nàng còn sâu sắc, mạnh mẽ hơn nhiều khi cả linh hồn nàng cũng bị hủy diệt: 
 
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
 
Nguyễn Du đã tố cáo cái chế độ phong kiến trà đạp cuộc sống của con người. Nguyền Du thoáng một chút động lòng mà nghe đã tê tái, tang thương. Người có tài ăn chương thì bạc mệnh như cái thuyết “tài mệnh tương đố” trong Truyện Kiều của ông. Đó là quy luật, là hiện thực phũ phàng mà quyền làm người không thể chấp nhận. Phi lí, độc ác hơn là sô phận của những áng văn thơ. Chúng có tội tình gì đâu mà phải trở thành tro bụi? Nhưng có phải đó là tấm lòng Tiểu Thanh, là chút lòng của một người con gái. Thể xác nàng dưới suối vàng nhưng linh hồn còn trú ngụ nơi trần gian. Linh hồn ấy là tâm sự, là nửa cuộc đời còn ẩn mãi trong mỗi trang thơ. Tại sao thể xác bị diệt vong thì linh hồn cũng bị hủy tàn? “Son phấn” và “văn chương” là sắc đẹp, tài năng của Tiểu Thanh. Đó là cái đẹp toàn mĩ. Nhưng xã hội phong kiến đâu có chấp nhận nó nên tài tử đành nuốt hận nơi suối vàng. Với chúng ta những người đời sau hôm nay còn tiếc, còn thương Tiểu Thanh nhiều lắm! Nhưng với Nguyễn Du, đó còn là sự trân trọng tài năng, gián tiếp gợi nên sự căm ghét, khinh bỉ những gì chà đạp lên tài năng đó. Nguyễn Du khóc Tiểu Thanh chứng tỏ ông đã hiểu nàng nhiều lắm... Ở một nơi xa, Nguyễn Du đang hướng về nơi ấy - nơi ấy có một người con gái tài sắc mà oan khổ lưu ly. Tiếng thơ đọc lên nghe êm dịu, đồng cảm vậy thôi nhưng chao ôi... nó như một tiếng nấc, tiếng nghẹn đến tức lòng. Nó như thét, như gào muốn xã hội phải trả lại quyền tự do cho cái tài và cái mĩ. Nhưng biết làm sao đây? Câu thơ tiếp theo đau đớn, tuyệt vọng:
 
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang.
 
Cái xã hội xấu xa thối nát ấy đã vùi dập một tài hoa hiếm thấy. Đó là vấn đề muôn thuở tự ngàn xưa. Nó luôn đau đáu, trăn trở trong lòng Nguyễn Du. Từ một số phận cụ thể, Nguyễn Du khái quát lên một vấn đề muôn đời. Nó có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Cái tài bị chà đạp, bị tàn lụi bởi sự độc ác thờ ở của cuộc đời! Đó chính là một hiện thực - một sự thật phũ phàng mà không ai có thể lí giải được, ở đây có sự phát triển của tư tưởng Nguyễn Du. Ông đã mất niềm tin vào “tài mệnh tương đố”, vào cái mệnh trời:
 
Thầm đọc chung hỏi trời
Trời cao biết đâu mà hỏi.
 
Câu thơ như một lời tuyệt vọng đến vô cùng. Ta cất lên lời hòi mà cuối cùng thì chìm hút, tan loãng ra không gian mênh mang. Nguyễn Du thương Tiểu Thanh lắm! Ông muốn giải oan cho nàng dầu nàng đã khuất. Nhưng sâu hơn, Nguyễn Du còn khao khát muốn xã hội này không còn ai phải như Tiểu Thanh. Cái tài và sắc đẹp phải được trở lại đúng với giá trị của nó, không ai có quyền phủ nhận. Nhưng hiện tại, sự thực hoàn toàn khác. Người tài tử buộc phải chấp nhận cái “án phong lưu” mang nặng tình nhân thế. Mối oan của kẻ phong nhã thật lạ lùng. Bi kịch ấy từ lâu đã dành cho những tâm hồn biết nhạy cảm, dễ rung động trước cái đẹp và đồng cảm với nỗi khổ đau của người khác. Nguyễn Du cũng nhận thức được “mối phong vận kì oan” của mình. Nhưng Nguyễn Du không sợ mà ông đau xót: đau xót cho mình và cho người. Cảm nhận điều đó, ông đã tự xếp mình cùng hội cùng thuyền cùng trang cùng lứa với những người tài tử, với cả những người con gái. Đó là một tấm lòng biết vượt lên ý thức chế độ phong kiến, một tâm hồn nhân đạo sâu sắc. Ý thức về “cùng một lứa bên trời lận đận” của Nguyễn Du đã giúp ông xóa nhòa được ranh giới bậc thang trong xã hôi và nhường lại đó là một sự cảm thông giữa con người với con người, ở một khía cạnh, ta trân trọng mà đồng thời cũng kính trọng Nguyễn Du biết bao.
 
Thương cảm trước số phận của Tiểu Thanh, Nguyền Du nâng cảm xúc của mình lên thành lòng thương một lớp người trong xã hội, thế rồi, ông trở lại lòng mình mà: “Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Hai câu thơ cuối như xoáy chặt vào lòng ta một nôi đau trước nỗi tuyệt vọng của một trang tài tử. Câu kết Nguyên Du dành cho chính mình bằng một câu hỏi lớn. Điều đó phù hợp với tâm lí con người. Nguyễn Du xót xa trước một thân phận hồng nhan chính là rơi lệ trước số phận mình đó! Nhưng như thế thì chưa dủ. Bởi lẽ “điều quan trọng là với cảm hứng trung thực của một nhà thơ lớn, từ chỗ thương khóc cho sự oan uổng của những kiếp tài hoa, Nguyễn Du đã tiến đến chỗ vạch ra được - một cách không tự giác - những đặc trưng bản chất của xã hội thời ông. Đó là sự chà đạp lên mọi nhân phẩm, sự tha hóa của mọi tính cách, sự tan rã của mọi giá trị cao đẹp” (Nguyễn Huệ Chi): 
 
Bất tri tam bách dư niên hậu 
Thiến hạ hà nhân khấp Tố Như.
(Thơ chữ Hán)
 
Lời thơ như vừa hi vọng vừa tuyệt vọng, vừa cô đơn, vừa tìm kiếm. Nguyễn Du muốn tìm một tấm lòng tri kỉ để thông cảm cùng mình “khấp Tố Như” không hẳn chỉ là khóc mà nó tức tưởi, ấm ức, nức nở. Khóc vì hiểu tận cùng nỗi đau, tận cùng nỗi xót. Nỗi đau ấy như hơn một lần ông đã đau với Tiểu Thanh. Nhưng biết đến bao giờ... bao giờ... Nguyễn Du đã bao lần từng trăn trở: “Thiên hạ thùy nhân liên bạc mệnh” hay “Thiên hạ hà nhân liên độc tỉnh”... Tấm lòng Nguyễn Du còn thấu đến ngàn đời. Nhưng có lẽ giờ đây, trang tài tử đã yên lòng nhắm mắt.
 
Nguyễn Du đã bày tỏ lòng xót xa, thương cảm đối với Tiểu Thanh, người con gái tài sắc. Cái xã hội dơ bẩn kia đã đẩy những con người tài sắc đó xuống vũng bùn của xã hội. Trải qua tháng năm, cái tình cảm Nguyễn Du vẫn còn nóng bỏng, vẫn tươi nguyên mà dồn nén lòng ta. Đó là tấm lòng nhân đạo, là sự cảm thông sâu sắc với những kiếp người gặp những trắc trở bất hạnh trong cuộc sống.

Sách giải st

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây