Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Nghị luận Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Chủ nhật - 11/09/2016 09:57
Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam.Sau khi tốt nghiệp Đại học, ông lên đường nhập ngũ. Trong thời khoảng thời gian sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn, ông đã sang tác bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào năm 1969 – thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra rất gay go; bài thơ sau đó được in trong tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa”. Đây là một bài thơ thuộc thể thơ tự do có cấu trúc linh hoạt, gồm bảy khổ, mỗi gồm bốn dòng, mỗi dòng gồm sáu chữ trở lên, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Bài thơ ca ngợi những chiến sĩ lái xe trong đoàn vận tải quân sự trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mĩ: dũng cảm, ngoan cường, lạc quan yêu đời… trong mưa bom bão đạn; quyết chiến đấu hi sinh vì một lí tưởng cao cả là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ. Bởi lẽ Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “Bài thơ” – cách ghi như thế có vẻ hơi thừa;  thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính, Xe không kính tức là xe hỏng,không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ ?! Vì đã nói đến thơ, tức là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng. Tuy nhiên, nếu suy xét lại, ta có thể nhận ra , đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

 
Câu thơ mở đầu như một câu văn xuôi, cách ngắt nhịp ba bảy, giọng thơ thản nhiên đã gây sự chú ý của người đọc về dáng vẻ kỳ lạ của chiếc xe – một chiếc xe được sử dụng để di chuyển trên chiến trường chiến tranh khốc liệt nhưng lại không có kính. Cấu trúc câu “không có kính… không phải vì…” như một lời phân bua giải thích cho sự “khiếm khuyết” của chiếc xe. Chiếc xe không có kính bởi một lẽ rất tự nhiên, hợp lý – do những trận bơm rơi, đạn nổ đã khiến kính xe vỡ đi. Di chuyển trên chiến trường với một chiếc xe “không có kính” quả thật chả phải là ý kiến hay bởi lẽ không có sự bảo hộ của các tấm kính, khi bom, đạn nổ và đất trời mịt mù khói bụi, sinh mạng của người chiến sĩ buồng lái luôn cận kề nguy hiểm. Thế nhưng giọng điệu của hai câu thơ sau là một giọng điệu rất đỗi thản nhiên pha chút ngang tàng khiến người đọc cũng có cảm nhận như thể một chiếc xe vận chuyển không có kính không phải là một điều đáng lo ngại. Từ láy “ ung dung” nghệ thuật đảo ngữ “ ung dung buồn lái ta ngồi “ thể hiện tư thế ung dung sẵn sang đối mặt cùng bom đạn. Những người chiến sĩ ấy không hề liễu lĩnh mà đánh cược mạng sống của mình với tử thần, họ có tinh thần trách nhiệm và biết rõ trọng trách quan trọng mình đang gánh trên – vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí, con người để chi viện cho chiến trường miền Nam . Và trên chặng đường vận chuyển đó, điều tất yếu khi lái xe là phải “nhìn đất” để phát hiện những chướng vật nguy hiểm trên đường, “nhìn trời” để phát hiện máy bay của địch mà tìm cách ứng phó, ‘nhìn thẳng” để sẵn sàng đối mặt với những hiểm nguy chực chờ, không sợ hãi, không né tránh.  Chỉ với bốn câu thơ đầu, tác giả đã khiến người đọc thấm thía tinh thần gang thép và phẩm chất anh hung của những người chiến sĩ lái xe. Dù hoàn cảnh có khó khăn khốn cùng thế nào, niềm tin yêu vào mục tiêu, lý tưởng vẫn tiếp thêm nghị lực cho họ vững tin, vượt qua bao nguy khốn.
 
"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái."

 
Những câu thơ tả chân thực đến từng chi tiết, Phạm Tiến Duật đã đặc biệt biến hóa sự nguy hiểm trở nên gần gũi, thể hiện sự thân mật giữa con người với thiên nhiên. “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng” việc thức khuya, lái xe đêm đã khiến đôi mắt thiếu ngủ của người chiến sĩ lái xe thêm trĩu nặng, nhưng vì không có sự ngăn cách của tấm kính, những cơn gió đã từ đâu lùa vào, nhẹ nhàng vỗ về, “xoa” dịu đôi mi anh. Vì tốc độ của chiếc xe quá nhanh đã khiến người lái có cảm giác như con đường đang chạy ngược lại ngoài ra “sao trời và cánh chim “ cùng các  từ “như sa”, ‘ như ùa” khiến nhịp thơ hơi nhanh, tạo cảm giác như tất cả cùng một lúc xông vào buồng lái. Bằng cách điệp các từ “nhìn”, động từ chỉ hoạt động, và từ “thấy”, từ chỉ cảm nhận, tác giả đem đến cho người đọc cảm giác đặc biệt như được sống lại vào thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, được cùng những người chiến sĩ lái xe rong ruổi trên những nẻo đường ra mặt trận
 
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 

 
Cụm từ “ không có kính, ừ thì”  mang giọng điệu ngang tàng, không chút bất bình, tự trách, bình thản chấp nhận cái lẽ tự nhiên – xe không có kính thì người lái phải trực tiếp đối mặt mưa bụi của Trường Sa. Bụi khiến mái tóc vốn đen bỗng hóa “trắng như người già”, nhưng điều đó không là gì đáng ngại, người chiến sĩ cảm thấy “chưa cần rửa” và “phì phèo châm điếu thuốc” rồi các anh “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Âm điệu giòn giã của tiếng cười “ha ha” ấy xua đi mọi khó khăn, gian khổ trên đường đi.
 
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi 

 
Hiện thực chiến tranh không còn khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của những người lính cách mạng . những hạt mưa bé nhỏ li ti khiến chiếc áo người chiến sĩ trở nên ướt đẫm, áo ướt cùng cát bụi đã khiến hoàn cảnh trở nên thêm bức bối, khó khăn, thế nhưng các bất lợi đó đã được giải quyết bằng những dòng thơ đậm chất tinh nghịch, hồn nhiên “chưa cần thay… khô mau thôi”. Các anh tìm ra trong thiếu thốn những niềm vui đủ đầy, những niềm vui mà không ai khác ngoài những người lính lái xe mới có! Cơn mưa tuôn, mưa xối kia, những bụi bặm mù mịt kia là “gia vị” của đời lính. Gió làm khô áo, và cũng thổi bay đi những cái gì ủy mị, để lại nguyên vẹn trong các anh sự trẻ trung, phóng khoáng như những cánh chim tự do trên con đường chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc.
 
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

 
Ở đoạn thơ này, ta lại bắt gặp một chi tiết đã xuất hiện ở các đoạn thơ trước, “bom rơi” là một điều gì đó tan hoang, tàn khốc thế nhưng nó vẫn không thể hủy diệt đi tinh thần kiên cường, niềm tin vào một tương lai tươi sáng của những người chiến sĩ. Các chiếc xe vượt qua bao trận mưa bom, bão đạn của Trường Sơn, họp lại với nhau và tạo nên một khung cảnh vô cùng thú vị - một tiểu đội “xe không kính” được kết nối với nhau bởi những cánh tay nước da đen sạm luồng qua các khung cửa “không kính”, họ hồ hởi, vui vẻ trao cho nhau những cái bắt tay đầy tình cảm, đây là biểu hiện của tình đồng đội thắm thiết. Chính những chiếc xe không kính đã trở thành chất keo gắn kết những con người xa lạ thành đồng chí, anh em, không có gì có thể cản lối con họ tiếp tục con “đường đi tới” mảnh đất miền Nam ruột thịt thân yêu.
 
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

 
KHổ thơ đã ghi lại những giây phút dừng chân đầy tình yêu thương, đầm ấm của những người lính lái xe. Tự lúc nào, chiếc xe “không kính” đã trở thành nơi sinh hoạt gia đình, anh em đồng chí. Chiếc xe như thể một  bầu trời rộng lớn, một ngôi mái vững chãi chở che các anh chiến sĩ, khiến các anh lúc nào cảm thấy như đang ở nhà. Trên chiếc xe, những người chiến sĩ bày các “võng mắc chông chênh”, tận hưởng một giấc ngủ trưa bên dưới nền trời xanh thẳm và có những cơn gió lướt qua, dẫn lối các anh vào chốn mộng mơ. Không chỉ  “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”, những người đồng đội ruột thịt thân tình ấy còn “dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời”, sẵn sàng chia sẻ, “dùng chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Và họ tiếp tục thẳng tiến về phía trước, tiểu đội xe “lại đi, lại đi” và trời cứ dần “xanh thêm” vì trong tâm trí các anh, đã thấp thoáng bóng dáng lá cờ của chủ nghĩa hòa bình, lá cờ cách mạng đỏ thắm kiêu hãnh tung bay vào ngày đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất.
 
Không có kính, rồi xe không có đèn, 
Không có mui xe, thùng xe có xước, 
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: 
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

 
Một lần nữa Phạm Tiến Duật khẳng định sự tàn khốc của chiến tranh đã khiến chiếc xe không những mất đi khung cửa kính mà cả đèn, cả mui xe cũng hỏng, để lại trên xe các vết xước hằn sâu mà sẽ mãi nhắc nhở ta về những năm tháng hoang tàn của quá khứ cùng sự nỗ lực không ngừng của những con người mang trong mình lý tưởng cao cả, để mang về ngày độc lập, bình yên cho dân tộc.  “Có một trái tim” là hình ảnh hoán dụ tượng trưng đặc sắc nói lên tình yêu nước cháy bỏng của những người lính trẻ Trường Sơn. Trái tim đã thắp lên, tỏa sáng trên con đường giải phóng, làm rực cháy ngọn đuốc vinh quang của dân tộc. Kết cấu câu thơ cuối như một lời tả thực, một lời hứa quyết tâm sắt đá, “ chiếc xe sẽ luôn  tiến về phía trước dù xa kia là bao nguy khốn đang chực chờ, bánh xe sẽ mãi lăn chỉ cần niềm yêu thương dành cho miền Nam ruột thịt kia vẫn còn ngự trị trong trái tim những người chiến sĩ”.
 
Cách phát hiện và khai thác đề tài độc đáo, hiện thực chiến tranh được tả thật đến từng chi tiết nhưng vẫn không kém phần lãng mạn cùng giọng thơ dí dỏm, tếu táo pha chút ngang tàng và tính cách phóng khoáng tiêu biểu của người lính là một yếu tố quan trọng giúp bài thơ ghi được dấu ấn trong lòng bao thế hệ. Khi so sánh với bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu, ta có thể nhận thấy Phạm Tiến Duật đã miêu tả rất chân thực nét tính cách riêng biệt của người lính thời kỳ kháng chiến chống Mỹ so với thời kỳ kháng chiến chống Pháp.  Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính nông dân ở thời đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc và một chút trầm tư sâu sắc. Còn ở Phạm Tiến Duật, là những người lính trẻ ngoan cường, ung dung, hóm hỉnh đầy lạc quan. Nhưng dẫu sao, hai thế hệ người lính trên đều mang trong mình tình yêu nước thiêng liêng, cháy bỏng, dẫn lối con tim họ vượt qua sợ hãi, mạnh mẽ, kiên cường chiến đấu vì Tổ quốc thân yêu,
 
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ của Phạm Tiến Duật. Bài thơ là những tình cảm, lời miêu tả chân tình của một người từng trải nên chất lính càng đậm chất hơn. Có thể nói, bài thơ này không chỉ viết riêng về “tiểu đội xe không kính’” mà còn viết cho những người lính Trường Sơn. Nó là một bài thơ sẽ mãi sống cùng năm tháng, mãi mang trong mình niềm tự hào dáng vóc, con người Việt Nam.

Darkness

  Ý kiến bạn đọc

DANH MỤC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây