Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Soạn văn lớp 8 sách Cánh Diều, bài 7: Phân tích một tác phẩm thơ

Chủ nhật - 07/01/2024 03:44
Soạn văn lớp 8 sách Cánh Diều, bài 7: Phân tích một tác phẩm thơ - Trang 48, 49, 50.
1. Định hướng
2. Thực hành
Đề bài: Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” của Trần Tế Xương.
Bài văn tham khảo 1:
Tú Xương là một nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ châm biếm, hài hước trên diễn đàn thơ ca Việt Nam. Trong sự nghiệp đồ sộ của mình, ông có tới mười ba bài vừa thơ vừa phú nói thuộc đề tài "thi cử" với thái độ mỉa mai, phẫn uất với chế độ thi cử đương thời. "Vịnh khoa thi Hương" là bài thơ trong số mười ba bài thơ đó. Qua bài thơ, Tú Xương muốn vẽ nên cái hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội nửa thực dân nửa phong kiến qua hình ảnh một kì thi Hương quan trọng cũng đồng thời mượn đó nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước.

"Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".


"Vịnh khoa thi Hương" là một bức tranh chân thực sống động về chế độ thi cử của Việt Nam những năm cuối triều Nguyễn, trước con mắt giám sát của bọn thực dân Pháp. Đó là một bức tranh một kì thi long trọng mà lại được tổ chức thật là lố lăng, nhốn nháo.

Mở đầu bài thơ, Tú Xương đã khéo léo dẫn vào trong thơ của mình hình ảnh của một kì thi hương với những đặc điểm giống và khác so với trước kia. Thứ nhất, kì thi hương được "nhà nước" mở ba năm một lần như thường lệ.

"Nhà nước ba năm mở một khoa"

Đây là đặc điểm quy định bình thường của lệ thi cử nước nhà xưa nay. Thế nhưng, đặc điểm thứ hai mới làm cho người ta kinh ngạc.

"Trường Nam thi lẫn với trường Hà"

Vốn là hai nơi khác nhau, hai trường thi khác nhau, vậy mà năm nay thí sinh của hai trường này lại ngồi trộn "lẫn" với nhau. Lý do là vì khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi ở Hà Nội bị bãi bỏ, "nhà nước" dồn các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống trường Nam Định để thi. Đây là điểm bất thường mà năm nay mới. Hơn thế, Tú Xương cũng dùng ở đây chữ "lẫn" để diễn tả khung cảnh nhốn nháo, ô hợp của trường thi, đối lập với sự trang nghiêm cần có trong một kì thi hương quan trọng của triều đình.

Hai câu đề đã làm tốt vai trò mở đầu, giới thiệu của nó, để đến hai câu tiếp theo, người đọc được chứng kiến, kiểm nghiệm ngay cái sự nhốn nháo đã nói ở trên:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa


Một khung cảnh thật là tạp nham, thật là nhốn nháo. Nào là sĩ tử đi thi, nào là quan lại coi thi cứ nhốn nháo hết cả lên, chẳng có quy cách của một kì thi hương quan trọng của triều đình. Hai nhân vật chính trong kì thi được bộc lộ, khắc họa thật rõ nét. Đồng thời cũng cho người đọc chúng ta thấy được cái tính cách, quy cách của trường thi năm nay thật khác biệt so với thời xưa. "Sĩ tử" là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi với bao nhiêu chai với lọ, thật nhếch nhác quá đỗi. Tú Xương đã cố ý đảo chữ "lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này. Hình ảnh cái "lọ" - vốn được cho là đựng mực, đựng nước uống của sĩ tử, nhưng lại "đeo" trên vai. Nghe sao có vẻ mỉa mai đến thế. Cái hình ảnh ấy như đang gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước. Và hơn thế, ông cũng muốn nhấn rằng những kẻ "vai đeo lọ" kia là những kẻ sĩ, những kẻ có tri thức trong xã hội mà lại không thể giữ cho mình cái phong thái mang danh kẻ sĩ ấy.

Không chỉ vậy, Tú Xương cũng nhấn mạnh thật kĩ hình ảnh của lũ "quan trường" - quan coi thi ở trường thi. Ông cũng đã tìm ra cho chúng một từ ngữ thật xứng đáng "ậm ọe".

"Ậm ọe quan trường miệng thét loa"

Nếu như lũ sĩ tử "lôi thôi", nhếch nhác bao nhiêu thì lũ quan trường lại "ậm ọe", lố lăng bấy nhiêu. Quả đúng là một từ ngữ sáng tạo xứng danh cái tên Tú Xương. Cái âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Nó cũng miêu tả cái sự phách lối, giáo điều, ra vẻ của đám quan trường ấy. Tú Xương đã đóng vai một nhà nhiếp ảnh để thu lại những hình ảnh chân thực nhất ở trường thi năm ấy. Bởi thi hương xưa có số lượng sĩ tử rất đông, diễn ra trên bãi đất trống, vậy nên phải dùng loa thì mới có thể nghe rõ được việc gọi tên. Thế nhưng, cái sự trang trọng trong việc gọi tên vào thi của kì thi hương ấy đã bị những kẻ làm quan kia lấn át, làm lu mờ bởi sự phách lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi mà chẳng có chút thực quyền nào. Cho nên, kì thi hương ấy, không chỉ đám sĩ tử mất đi cái phong thái của một kẻ sĩ học chữ Nho mà đám quan lại cũng mất đi sự tôn kính, trang nghiêm của một kì thi lớn của đất nước.

Hai câu thơ đối nhau song song, làm nổi bật lên cái khung cảnh của trường thi. Nhưng trong đó, người ta thấy không chỉ là bóng dáng của trường thi với kì thi hương mà còn thấy khung cảnh hỗn tạp, nhốn nháo của đất nước khi rơi vào tình nửa thực dân nửa phong kiến. Và triều Nguyễn kia chẳng khác gì bức bình phong, một con rối bị điều khiển bởi chính quyền Pháp.

Chúng ta cũng thấy được ở trong câu thơ, cái sự mỉa mai đến tột độ của tác giả về triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, đồng thời, hai câu thơ tiếp, ông bộc lộ một sự mỉa mai, khinh ghét đối với chính quyền thực dân:

"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra"


Vẫn trung thành với lối tả thực, Tú Xương tiếp tục vẽ lại bức tranh trường thi khi mà nó được viếng thăm bởi tên Toàn quyền người Pháp cùng vợ của hắn. Không phải ngẫu nhiên mà Tú Xương lại đặt hình ảnh này vào trong hai câu thơ chủ chốt của bài thơ. Bởi hình ảnh của một "ông Tây" với "bà đầm" phản ánh thật đúng với cái tình cảnh của nước ta thời bấy giờ. Đó là xã hội mà người dân trở thành nô lệ, triều đình là một bức bình phong còn thực quyền ở trong tay người Pháp. Một kẻ cướp nước mà lại được đến tham quan một trường thi quan trọng, lại được đón tiếp bằng "lọng" bằng "cờ" thì thật là sự long trọng, kính cẩn đầy mỉa mai.

Không chỉ vậy, quan Tây bà đầm còn được miêu tả là được ngồi lên vị trí cao nhất của trường thi. Tú Xương đang ám chỉ điều gì? Phải chăng là cảnh nước mất nhà tan đã diễn ra ngay trước mắt?

Thế nhưng, phải thật tinh tế mới nhận ra, Tú Xương đã dùng thơ Đường làm vũ khí để mỉa mai thật sắc bén, để bày tỏ thái độ của mình đối với lũ cướp nước kia.

Sử dụng nghệ thuật thơ đối xứng, Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng" của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm, câu thơ như "chửi thẳng" vào mặt viên quan sứ người Tây kia. Không chỉ thế, tác giả đã dùng từ "quan sứ" để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp kia hay sao? Bởi ai cũng biết, từ "mụ" để chỉ những hạng đàn bà không ra gì, gọi vợ của "quan sứ" là "mụ" thì khác gì nói ông "quan sứ" kia chỉ là "thằng" mà thôi sao? Quả thật, cái chửi của Tú Xương sâu cay và thâm thúy đến nhường nào!

Thế mới thấy, thơ Tú Xương không chỉ miêu tả cái hiện thực lạnh lùng, tàn khốc mà còn lồng cả vào đó tiếng cười sâu cay, đắng ngọt, phơi bày trong đó cái tâm của một kẻ sĩ yêu nước, đau lòng vì nước mất nhà tan nhưng vì lực yếu sức mỏng mà đành dùng lời văn làm vũ khí cho mình.

Để đến cuối cùng, cái cười kia chẳng thể át nổi niềm đau xót trong tâm của ông, nó bật ra thành tiếng:

"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".


"Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị, nơi của anh tài khắp đất nước hội tụ về đây. Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc. Ông đang nói với chính mình hay là đang kêu gọi ai, ai còn nghĩ tới nỗi nhục mất nước, ai còn tự hào với dân tộc bốn ngàn năm lịch sử này chăng? Đọc câu thơ mà ta thấy sự xót xa, đau xót của tác giả trước tình cảnh của đất nước. "Nhân tài" ở đây chỉ ai, nó chỉ là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này, hay là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem "cảnh nước nhà"?

Ở đây, Tú Xương không quyết liệt thể hiện tư tưởng kêu gọi mọi người chung tay dẹp loạn như trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:

"Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"


Ở thơ Tú Xương, người ta chỉ thấy gợi lên sự nhục nhã khi mất nước, không mạnh bạo, quyết liệt như thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ổng chỉ chỉ ra sự làm ngơ của những kẻ sĩ yêu nước đã quay đầu, làm ngơ, không quan tâm đến, mắt thấy tai nghe để lũ giặc cướp nước và bè lũ tay sai của chúng làm tan nát đất nước của mình. Ông kêu gọi họ hãy "ngoảnh cổ mà trông" - "ngoảnh cổ" ngoái lại nhìn, để thấy, để chứng kiến đất nước đang suy tàn trước lũ giặc. Ở hai câu kết này, cái cười châm biếm của Tú Xương chẳng còn nữa mà nhường chỗ cho nỗi đau xót vô vàn khi đất nước lâm nạn. Dường như ta còn thấy được cả những giọt nước mắt của ông cả trong tiếng cười sâu cay kia.

Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Tú Xương viết bằng thể thơ Đường thất ngôn bát cú. Với tài hoa, cùng nghệ thuật châm biếm sâu cay, ông đã dựng lên bức tranh về trường thi Hương những năm cuối triều Nguyễn với sự nhốn nháo, lố lăng của lũ quan trường, sự nhếch nhác của đám sĩ tử. Đồng thời, qua đó, ông cũng muốn vẽ lên cái hiện thực về xã hội phong kiến nửa thực dân bằng cái nhìn đầy mỉa mai của mình và gửi vào trong đó, tâm tư của một kẻ sĩ yêu nước trước tình cảnh của đất nước.

Vịnh khoa thi Hương là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Tú Xương vừa hiện thực lại vừa trữ tình. Qua đó khẳng định được tài năng của ông, khi chỉ cần vẽ lên một khung cảnh một kì thi Hương mà đã nói lên được cả cái bản chất của xã hội lúc bấy giờ.

Bài văn tham khảo 2:
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và “Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:

“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”


Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp nham của khoa thi Hương năm ấy.

Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”


Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!

Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”


Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng, vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn. Ở đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.

Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”


Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ. Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế?

Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.

2.2. Rèn luyện kĩ năng phân tích tác dụng của hình thức thơ
a) Cách thức
Mỗi thể loại văn học đều có những hình thức tiêu biểu, nổi bật. Để thể hiện nội dung và cảm xúc, thơ nói chung thường sử dụng một số yếu tố hình thức như: vần, nhịp, từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ,...

Mỗi yếu tố hình thức của văn bản thơ đều có tác dụng trong việc biểu đạt nội dung (cảm xúc, tình cảm, tư tưởng,...). Khi đọc và phân tích thơ, cần chỉ ra tác dụng của các yếu tố hình thức trong việc biểu hiện nội dung. Cần tránh việc chỉ nêu nội dung hoặc chỉ nêu hình thức, không thấy mối quan hệ của hai yếu tố ấy.

b) Bài tập
Trong các đoạn văn dưới đây, người viết đã tập trung phân tích tác dụng của yếu tố hình thức nào của văn bản thơ
– Đoạn 1: “Trong không khi lắng sâu ấy của đất trời, một hình ảnh hiện lên: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Ánh trăng bao phủ trùm lên cổ thụ. Ánh trăng lồng vào tán lá. Cành lá cắt ánh trăng thành những mảng trắng đen lẫn lộn, những bóng trăng và bóng cây. Hai lớp bóng ấy lại trùm lên, lồng vào khóm hoa và bóng hoa, bóng trăng, bóng cây lại in lên mặt đất. Chỉ có tối và sáng, trắng và đen loang loáng ánh bạc. Sắc màu bề ngoài mát lạnh. Mọi vật im phăng phắc. Ấy thế mà bên trong, thiên nhiên lại vận động ẩm áp vô chừng.”.
(Lê Trí Viễn)
– Đoạn 2: “Các từ láy “xao xác”, “não nùng”, “chập chờn” gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm, một tâm trạng quạnh hiu, xa vắng. “Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng” nhịp điệu thơ trôi nhẹ như ru hồn về một thời xa xăm. Chữ “ngày không” thật đầy sức gợi.”.
(Lê Quang Hưng)

– Đoạn 3: “Trong hai câu thực, nhà thơ dùng thủ pháp cực tả, nói quá và biếm hoạ hình ảnh sĩ tử cũng như các quan coi thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Với hình thức đảo ngữ, đặt tính từ “Lôi thôi” lên đầu câu, nhân vật sĩ tử “vai đeo lọ” bỗng trở thành kẻ nhếch nhác, luộm thuộm, được chăng hay chớ. Tiếp theo, việc đảo tính từ đồng thời là từ láy “Âm oe” lên trước cũng biếm hoạ ông quan coi thi “miệng thét loa” thành người ngu ngơ, ấm ở, dớ dẩn.”.
(Nguyễn Hữu Sơn)

Trả lời:
– Đoạn 1: Phân tích hình ảnh: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
– Đoạn 2: Tác dụng của các từ láy “xao xác”, “não nùng”, “chập chờn”.
– Đoạn 3: Phân tích các phép tu từ: nói quá, đảo ngữ; cách sử dụng tính từ. 

  Ý kiến bạn đọc

DANH MỤC

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây