Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.
Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.
Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương

Chủ nhật - 07/01/2024 04:51
Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường được gọi là Tú Xương vì đi thi tới Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy nên chi đỗ Tú tài.
Bài làm 1: Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương
Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường được gọi là Tú Xương vì đi thi tới Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy nên chi đỗ Tú tài. Tuy nhiên, tài năng thơ ca, đặc biệt là thơ trào phúng đã tôn vinh tên tuổi của ông lên vị trí hàng đầu trong giai đoạn văn học cuối thế ki XIX, đầu thế ki XX.

Vịnh khoa thi Hương là bài thơ thể hiện thái độ mỉa mai căm uất của Tú Xương đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường thi cử gian nan, lận đận của riêng ông. Có người cho rằng Vịnh khoa thi Hương là tiếng khóc nhưng lại có người cho đó là tiếng cười châm biếm sâu cay của Trần Tế Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cả hai nhận xét trên đều đúng.

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Long cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.


Bài thơ là bức biếm họa toàn cảnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) Vì tình hình chính trị bất ổn nên sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung với sĩ tử của trường thi Nam Định. Chính vì thế mà quang cảnh lộn xộn, trái hẳn với không khí trang nghiêm vốn có chốn cửa Khổng sân Trình.

Cái lệ ba năm mở một khoa là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt ra đã từ lâu. Nhưng từ Nhà nước mở đầu bài thơ lại ám chĩ chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp lúc bấy giờ với ý châm biếm, vì triều đình nhà Nguyễn chi còn là bù nhìn mà thôi.

Hai câu đề:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.


Câu phá đề đơn thuần mang tính chất thông báo, nhưng đốn câu thừa đề thì ý châm biếm của tác giả đã bộc lộ qua từ lẫn. Mọi chuyện bát nháo, nực cười nơi trường thi cũng khởi nguồn từ sự chung đụng lẫn lộn này.

Hai câu thực:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.


Với kết cấu đảo ngược đưa tính từ lên vị trí đầu câu, Tú xương đã đặc tả cảnh tượng đáng buồn của một trường thi ở giai đoạn chữ Hán đang bị chữ quốc ngữ đẩy lùi.

Ngày xưa, sĩ tử đi thi phải mang theo lều chõng, cơm nước, tráp để đựng bút, giấy, nghiên mực… và một ống quyển để đựng quyển thi. Lọ ở đây là lọ nước uống. Mang vác lỉnh kỉnh như thế nên trông họ lôi thôi, lại chen lấn, xô đẩy nên càng giống một đám đông hỗn loạn ngoài đường ngoài chợ chứ không phải ở chốn trường thi vốn dĩ uy nghiêm.

Sĩ tử thảm hại đã đành, còn quan trường cũng chẳng hơn gì. Tiếng loa gọi thí sinh lần lượt nhập trường thi lẽ ra phải rõ ràng, dõng dạc nhưng vì quá ồn ào, lộn xộn nên quan xướng danh phải cố thét lên cho thật to, riết rồi thành ậm oẹ, chẳng ra đâu vào đâu cả nên hoá buồn cười.

Hai câu luận:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.


Bằng bút pháp trào lộng sắc sảo, Tú Xương tiếp tục tả thực cái “chợ phiên” chữ nghĩa ấy với những chi tiết vô cùng độc đáo. Biết bao là trớ trêu, ngậm ngùi ẩn chứa trong khung cảnh ấy. Để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đã đến dự khai mạc trường thi cho thêm phần long trọng. Con mắt tinh đời và tâm trạng phẫn uất của Tú Xương đã giiúp mọi người nhận ra nỗi nhục mất nước qua hai hình ảnh tương phản trong hai câu thơ đối nhau chan chát là: Cờ của triều đình phong kiến bán nước đối với Váy của vợ tên quan thực dần cướp nước. Ngậm ngùi, cay đắng biết bao nhiêu! Dâu không có giọt nước mắt nào nhưng người đọc thấy rõ là nhà thơ đang cắn răng cố nuốt tiếng khóc vào trong, ông khóc vì quốc thể bị xúc phạm, khóc vì nỗi nhục nô lệ của giới trí thức nói riêng và cả dân tộc nói chung.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.


Nỗi ngậm ngùi bị dồn nén cao độ đã bật thốt thành lời cảm thán làm rung động lí trí và tình cảm người trong cuộc cũng như người ngoài cuộc.

Nhân tài đất Bắc là cách gọi mỉa mai của Tú xương đối với đám Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ đang chen chúc chốn trường thi nhốn nháo đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong đám đông ấy, hỏi có ai nghĩ tới cảnh nước nhà đáng đau, đáng hận; hay chỉ chúi mũi chúi tai tranh nhau cố kiếm miếng đinh chung mà quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ?!

Nhiều người có cùng một nhận xét là trong thơ Trần Tế xương, sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình được thể hiện khá rõ. Có thể coi bài Vịnh khoa thi Hương này là một ví dụ tiêu biểu. Đằng sau tiếng cười châm biếm mang ý nghĩa xã hội sâu xa là tiếng khóc ngậm ngùi, nuối tiếc cho nền Hán học suy tàn và tất cả những gì từng được coi là tinh hoa của nó đã bị đẩy lùi trước làn sóng văn hoá phương Tây đang tràn vào nước ta theo bước chân của đạo quân viễn chinh xâm lược Pháp.

Bài làm 2: Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương

Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, cuộc đời ông chỉ gắn với thi cử. Tài năng trong thơ ca đặc biệt là thơ trào phúng đã tôn vinh tên tuổi của ông lên vị trí hàng đầu trong giai đoạn cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Sự nghiệp thơ ca của Tú Xương được mọi người ca ngợi như một chàng trai sung sức bất chấp mọi thử thách của thời gian. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, Vịnh khoa thi hương là một tác phẩm đặc sắc trong số đó thể hiện thái độ mỉa mai phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ khoa cử nhốn nháo đối với chế độ thi cử lúc bấy giờ và con đường thi cử lận đận của riêng ông

Cuối thế kỉ XIX thực dân Pháp xâm lược nước ta cùng sự thối nát của xã hội phong kiến đang có tư tưởng đầu hàng bọn thực dân thì cuộc sống của các nhà nho vô cùng cực khổ đặc biệt là các nhà nho yêu nước . Nhưng kì thi khoa cử vẫn diễn ra. Bài thơ là bức tranh miêu tả sống động và hết sức thực tế của kì thi đó.

Hai câu đầu tiên tác giả viết:
“Nhà nước ba năm mở một khoa thi
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”


Việc thi cử ngày xưa là do triều đình lập ra mục đích là kén chọn người tài phục vụ đất nước. Tác giả đã giới thiệu kì thi khoa cử này ba năm diễn ra một lần và đây là kì thi khoa hương năm Đinh Dậu. Nhưng đặc điểm thứ hai khiến nó trở nên bất thường :trường nam định thi lẫn với trường hà nội . Thời Nguyễn ở Bắc Kì có hai trường thi là trường thi ở Hà Nội và trường thi ở Nam Định. Nhưng vào năm Đinh Dậu thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở trường thi Hà Nội nữa mà dồn hết xuống trường thi ở Nam Định thi. Cách dùng từ “lẫn”tạo thái độ mỉa mai châm biếm và dự đoán một sự ô hợp trong việc cử . Và thực tế đã gây nên sự lộn xộn nhốn nháo thiếu nề nếp quy củ của cuộc thi. Sự nhốn nháo này phần nào cho ta thấy được tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ và sự áp đảo của bọn giặc ngoại bang đang lăm le nước ta . Những câu thơ tiếp theo đã lột tả tất cả cái chớ trêu buồn cười trong khi thi.

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa”


Hình ảnh sĩ tử xuất hiện trong thơ Tú Xương thật buồn cười khi bị gán vào từ “vai đeo lọ”. Ngày xưa sĩ tử khi đi thi phải mang theo rất nhiều thứ như lều võng đồ ăn thức uống và lọ ở đây có thể được hiểu theo hai nghĩa đó là lọ uống nước và nghĩa thứ hai là lọ mực. Nhưng hiểu theo nghĩa nào thì nó cũng thể hiện cái lôi thôi lếch thếch của sĩ tử khi đi dự thi. Trong số những người này có người sẽ làm quan nọ quan kia vậy mà  nhìn dáng vẻ của họ bấy giờ như một đám hỗn độn ngoài chợ chứ không phải là chốn quan trường uy nghiêm. Nghệ thuật đảo ngữ đảo tính từ “lôi thôi” lên trước “sĩ tử”càng làm cho nhân vật sĩ tử trở nên luộm thuộm nhếch nhác lôi thôi. Cùng với đó cũng là nghệ thuật đảo ngữ ở câu tiếp theo khiến ta lấy làm buồn cười và chế giễu cảnh quan trường lộn xộn này khi đặt “ậm ọe” lên trên quan trường và khiến trường thi trở nên nhố nhăng . Thực tế ta cũng thấy rằng việc dùng loa để ổn định trật tự quan trường cũng là điều hết sức bình thường bởi nơi trường thi rất nhiều người nên không thể không dùng đến loa được nhưng cái buồn cười ở chỗ là đối tượng người coi thi nói năng ậm ọe ấp úng ra oai gượng gạo. Bên cạnh đó hình ảnh “miệng thết loa”cũng cho thấy cảnh lộn xộn nhấn nháo của trường thi. Nhân vật sĩ tử và quan trường vốn được coi trọng và đại diện cho các giá trị truyền thống  nhưng ở đây lại đem lại cho chúng ta một sự lôi thôi nhếch nhác đáng bị chê cười.

Hai câu tiếp theo là cảnh quan trường của ta bị thực dân Pháp ra uy:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quẹt đất mụ đầm ra”


Cảnh trường thi lúc này lại là “lọng cắm rợp”, đó là những chiếc cờ được treo lên khi có sự xuất hiện của những người dường như không liên quan đến kì thi nhưng lại rất được coi trọng. Sau những chiếc lọng là hình ảnh quan sứ bước ra và đi sau đó là “váy lê quẹt đất”cùng”mụ đầm” bước ra chính là một sự thay đổi lớn và khiến trường thi trở nên mới mẻ. Hai kiểu nhân vật này đại diện cho một xã hội mới một thời đại mới và một nền giáo dục mới. Cách gọi “quan sứ” đăng đối với “mụ đầm”thể hiện cái giễu cợt chê bai của tác giả. Tác giả gọi những tên quan sứ bằng giọng điệu rất kính trọng nhưng vợ củ hắn lại được tác giả gọi với một thái độ khinh bỉ”mụ”ở đây là chỉ những loại đàn bà không ra gì, thấp kém trong xã hội khiến loạt cảnh này lại gây cười thêm một lần nữa. Bằng phép đối lập giữa quan sứ và bà đầm với một bên là cờ lọng với váy lê tác giả đã vẽ lên bức tranh biếm họa trường thi đầy rẫy nhưng ngược đời đối lập trớ trêu. Hình ảnh quan sứ và mụ đầm là sự phô trương về hình thức và không đúng với lễ nghi. Tất cả báo hiệu sự sa sút về chất lượng của một kì thi cử, đây cũng là bản chất của xã hội thực dân phong kiến . Tiếng cười mỉa mai chau xót của Tú Xương cất lên nhưng bên cạnh đó là tình cảm buồn thương cho sự nhục nhã của giới trí thức nói chung và toàn thể dân tộc nói chung.

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”


Nỗi xót thương cho đất nước cho triều đình đã được nhà thơ thốt lên và như lời kêu gọi nhân tài đất nước. ”nhân tài” được tác tác giả kêu gọi ở đây là tất cả những sĩ phu đang ngồi trong trường thi kia đang dự thi để đỗ đã thành quan để phục vụ nhân dân đất nước. Không chỉ có những sĩ tử kia mà nhân tài ở đây còn có thể hiểu rộng ra là cả những quan trường, những bậc trí thức và tất cả những người dân có trách nhiệm đối với đất nước “Ngoảnh cổ”là thái độ tâm thế không cam tâm sống mãi trong cảnh đời nô lệ, “cảnh nước nhà” là hiện trạng của xã hội phong kiến thối nát và thực trang sự trưng bày phô trương của bon thực dân đang xâm lấn đất nước ta. Tác giả kêu gọi tinh thần yêu nước trong bản thân mỗi con người, thức tinh lòng tự tôn dân tộc. Đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng buồn chán của nhà thơ trước thực cảnh nô lệ của đất nước

Sự kết hợp hòa hợp giữa sự châm biếm đả kích và trữ tình cùng với đó là nghệ thuật đảo ngữ đối lập thể hiện bức tranh quang cảnh trường thi và sự nhố nhăng trong khung cảnh tiếp đón quan sứ. Bên cạnh đó không thể không kể đến sự châm biếm đả kích của tác giả vào bài thơ cũng khiến cho tác phẩm trở nên sinh động và hài hước hơn cùng với làm lột tả cảnh nô lệ của đất nước đang bị bọn thực dân áp bức.

Bài thơ vịnh khoa thi hương thể hiện rất sắc nét hình tượng tác giả vừa miêu tả cảnh trường thi một cách thẳng thắn vừa bộc lộ vào trong đó là những cảm xúc chân thật của tác giả khi đứng trước tình cảnh đất nước giặc ngoại xâm áp bức trong khi mình cũng là một nhà nho, một “nhân tài”của đất nước. Bài thơ cho người đọc thấy được thái độ trọng danh dự, tâm sự lo nước thương đời và tâm trang đau đớn của tác giả trước tình trạng thi cử trong buổi đầu chế độ thuộc địa nửa phong kiến.

Bài làm 3: Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương

Có người cho rằng bài thơ vịnh khoa thi hương là tiếng khóc, nhưng lại có người cho rằng đó là tiếng cười châm biếng sâu cay của Trần Tế Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ. Sau đây chúng ta cùng phân tích bài thơ để có những cái nhìn và lời nhận xét.

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”


Bài thơ Vịnh khoa thi Hương (còn có tên Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu) là một trong số 13 tác phẩm của Trần Tế Xương viết về đề tài thi cử. Trong bản chất, việc thi cử bao giờ cũng cần thiết. Có thể khẳng định rằng phần lớn những người đỗ đạt (kể cả những người đỗ vào chính các khoa thi mà Trần Tế Xương từng phê phán) đều là những người tài giỏi, có đóng góp quan trọng với đất nước. Với Trần Tế Xương, ông triệt để khai thác đề tài thi cử, những điều mắt thấy tai nghe, chủ yếu là những việc liên quan đến lề lối, cung cách thi cử, lối thi cũ cũng như khi đổi sang lối thi mới, cả người đỗ đạt cũng như người hỏng thi. Vì thế, việc đọc hiểu bài thơ Vịnh khoa thi Hương cần phân biệt rõ thủ pháp biếm họa, cực tả (bao gồm cả việc châm biếm những phương diện trong bản chất vốn là sự cải cách, đổi mới, tiến bộ xã hội) và cần được đặt trong tương quan với nhiều thi phẩm của chính Trần Tế Xương (Đổi thi, Than sự thi, Đi thi nói ngông, Ông tiến sĩ mới…) cũng như so với thơ ca cùng dạng đề tài khoa cử của nhiều tác giả khác đương thời.

Trong tầm quan sát của Trần Tế Xương, tất cả mọi vấn đề liên quan đến thi cử đều bị “biến dạng” trong mối quan hệ giữa danh và thực, tài và lực, giữa cái cũ lạc hậu nhưng chưa tiêu tan và cái mới vẫn chưa thắng thế. Nói cách khác, thơ Trần Tế Xương đã hoán cải ngay cả những bi kịch thi cử và thất vọng cá nhân thành một chuỗi cười dài. Mở đầu bài thơ Vịnh khoa thi Hương, việc nhà nước mở khoa thi theo lối mới và thay đổi cách thức tổ chức thi cử – trường Hà Nội thi chung với trường Nam Định – cũng trở thành vấn đề:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.


Trong hai câu ở phần thực, nhà thơ thực hiện thủ pháp cực tả, nói quá và biếm họa hình ảnh sĩ tử cũng như các quan coi thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.


Với hình thức đảo ngữ, đặt tính từ “Lôi thôi…” lên đầu câu, nhân vật sĩ tử “vai đeo lọ” bỗng trở thành kẻ nhếch nhác, luộm thuộm, được chăng hay chớ. Tiếp theo, việc đảo tính từ đồng thời là từ láy “Ậm ọe…” lên trước cũng biếm họa ông quan coi thi “miệng thét loa” thành người ngu ngơ, ấm ớ, dớ dẩn. Trên thực tế, việc quan trường “miệng thét loa” là hành động đúng – đúng cả về mục đích và ý thức trách nhiệm – nhằm vãn hồi trật tự, xác lập sự nghiêm túc nơi trường thi, có gì là sai đâu? Hai câu thơ giới thiệu hai kiểu nhân vật vốn là chủ nhân nơi trường thi nhưng đã bị biếm họa thành hình ảnh những người thô kệch, thiếu tư cách, không phù hợp với khung cảnh thi cử. Ở đây, kiểu nhân vật sĩ tử và quan trường từ muôn năm xưa vốn được coi trọng mà nay mất thiêng, hóa thành loại người nhếch nhác, láo nháo, đáng bị chê cười. Tác giả đã lược giản, bỏ qua cái phần phẩm cách mà chính họ từng đại diện cho các giá trị tinh thần truyền thống và ngược lại, chỉ tập trung khai thác, tô đậm, biếm họa ngay cả những hành động, việc làm nghiêm chỉnh của họ nơi trường thi.

Tiếp theo hai câu ở phần luận, Trần Tế Xương giới thiệu thêm hai loại nhân vật mới mà tử cổ xưa đến nay mới lần đầu xuất hiện giữa nơi trường thi:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.


Hoạt cảnh nổi bật là sự khoa trương hình thức với những chiếc lọng “cắm rợp trời” và sau đó là ông quan sứ (ông quan cai trị người Pháp) xuất hiện. Ở câu thơ sau là chiếc váy xòe xa lạ “lê quét đất” và liền đó là hình hài “mụ đầm” (bà, bà đầm: dame: bà Tây&hellip (vợ ông quan sứ Pháp) oai vệ bước ra. Có thể nói sự hiện diện của hai kiểu nhân vật “quan sứ” và “mụ đầm” chính là một sự thay đổi cơ bản, khiến cho hoạt cảnh trường thi càng thêm phần xa lạ, phản cảm. Hai kiểu nhân vật này đại diện cho một thời đại mới, một chế độ mới, một thế lực và một nền giáo dục mới mẻ. Cách gọi “quan sứ” đăng đối với “mụ đầm” đã hàm chứa sự giễu cợt, châm biếm mát mẻ và thái độ xa lánh, coi thường… Tuy nhiên, ngay cả khi trong sách giáo khoa có chú dẫn về cảnh đón rước: “Khoa thi Hương này có Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Pôn Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đến dự” thì xét về bản chất, khoa thi rất được chú trọng, có cả quan Toàn quyền đến tham dự, chứng kiến. Và cũng xét về bản chất, có điều gì cần phê phán không? Thêm nữa, hình ảnh bà đầm trang phục đúng kiểu Tây cũng bị giễu nhại: Váy lê quét đất… Thời Pháp thuộc, phần nhiều dân ta xa lạ với kiểu váy đầm, tóc phi dê: Cô phi dê là con chó xồm/ Đứng bên tôi làm tôi hết hồn… Bà đầm – vợ ông Toàn quyền – vốn chẳng có lỗi gì cũng bị săm soi, chê trách, biếm họa. Có thể nói, Trần Tế Xương đã đứng trên lập trường đạo đức và thậm chí là một chiều khi qui kết, châm biếm cả những phương diện thuộc về cải cách thi cử và tiến bộ xã hội. Cho đến hai câu kết, Trần Tế Xương nâng cấp sự ý thức của các sĩ tử trong khoa thi thành vấn đề quốc thể:

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.


Câu hỏi đặt cho nhân tài đắt Bắc “nào ai đó” góp phần tô đậm, nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm kẻ sĩ trước hiện tình đất nước. Bởi lẽ những người được gọi là “Nhân tài” ở đây trước hết phải kể đến các sĩ tử, những người đang dự thi và mong được đỗ đạt, làm quan, thành nhân tài cai quản xã hội. Nhìn rộng ra, xếp vào hệ thống nhân tài còn có giới quan trường, các bậc trí thức, những người có trách nhiệm với non sông đất nước. Tác giả đặt ra câu câu hỏi nhưng ngay trong đó đã sẵn có câu trả lời, ai cũng rõ “ai” được xếp vào loại “nhân tài”. Câu thơ thật bình dị mà đa nghĩa, khơi gợi ý thức trách nhiệm của mọi người: Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà… “Ngoảnh cổ mà trông…” thì cũng chính là tự trông lại, tự xét đoán, nhìn nhận lại thân phận mình. Có thể nói hai câu kết đã nâng tầm tư tưởng của bài thơ, gián tiếp đưa ra câu hỏi cho tất cả các sĩ tử, quan trường và nhân tài đất Bắc với bên kia là những quan sứ, mụ đầm cùng xuất hiện trong hoạt cảnh thi cử nhố nhăng thời thực dân nửa phong kiến. Điều này tạo nên tiếng cười lưỡng phân trong thơ ông: vừa bất lực trước quá khứ vừa ngơ ngác trước một thực tại mới, vừa xa xôi kỳ vọng vào lớp người mới “Nhân tài đất Bắc” vừa bàng hoàng trước phong vận đổi thay “Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”…

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương thể hiện sắc nét hệ thống hình tượng tác giả vừa trong tư cách cảm hứng sáng tác vừa là sự bày tỏ nỗi niềm chủ thể và như sự miêu tả về một kiểu nhân vật trữ tình khách thể, “bên ngoài mình”. Ông vừa đóng vai chứng nhân, vừa là tác giả và đồng thời cũng là sĩ tử và “nhân tài” đất nước. Với tiếng cười trào lộng, nhà thơ đi sâu khai thác và biếm họa mọi nhân vật, từ vẻ ngoài đến vai trò, vị thế và đi đến khái quát được bản chất xã hội qua thực trạng hình thức thi cử. Có thể thấy thủ pháp châm biếm, “hí họa” trong bút pháp trào phúng của Trần Tế Xương đã làm nên mối quan hệ hai chiều: trào phúng gắn quyện với trữ tình, vẽ nên hoạt cảnh thi cử bi hài và lên tiếng thức tỉnh lương tâm người trí thức trước thực trạng xã hội đương thời.

Bài làm 4: Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và “Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”


Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp nham của khoa thi Hương năm ấy.

Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”


Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!

Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”


Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng, vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn. Ở đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.

Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”


Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ. Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế?

Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây