Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn học mà em đã học hoặc đã đọc - Bài 1
Nghệ thuật viết văn nói theo nhà văn Nga Sê-khốp đúng là "nghệ thuật của những chi tiết". Sự lựa chọn chi tiết "đắt giá" có khả năng "nói" được nhiều về tính cách nhân vật, thể hiện tài quan sát, tài kể chuyện của người viết. Trong Chiếc lược ngà người đọc có thể tìm thấy rất nhiều những chi tiết như thế thông qua tình huống truyện độc đáo.
Có hai tình tiết cơ bản tạo nên tình huống truyện trong đoạn trích này. Tình tiết thứ nhất kể người cha đi kháng chiến về thăm nhà sau gần bảy năm đi vắng, não nức được gặp cô con gái bé bỏng – đứa con duy nhất – chưa đầy một tuổi khi anh ra đi, nhưng đến giây phút thiêng liêng mà người cha hằng chờ đợi ấy, bé Thu lại không chịu nhận cha. Để rồi, cuối cùng nhận ra cha mình và biểu lộ tình cảm với cha thì người cha cũng đã hết ngày phép phải ra đi. Tình huống thứ hai là sau khi ông Sáu đi vào khu căn cứ, ông dành tất cả những tình cảm và tình yêu thương, nỗi nhớ bé Thu bằng việc làm chiếc lược ngà tặng con, nhưng khi chưa kịp tặng thì ông đã hi sinh.
Truyện viết về tình cảm cha con, nhưng là tình cảm cha con được thể hiện trong chiến tranh. Người cha là anh Sáu, "thoát li đi kháng chiến từ đầu năm 1946". Con gái anh là bé Thu "đứa con gái đầu lòng – và cũng là đứa con duy nhất của anh", lúc anh đi bé Thu "chưa đầy một tuổi". Biền biệt sáu, bảy năm trời hai cha con không được gặp nhau. Anh Sáu chỉ thấy con qua "tấm ảnh nhỏ". Vì thế, nay được về thăm nhà mấy hôm, "cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh". Và mong muốn tha thiết nhất của anh là được đứa con gọi mình một tiếng "ba". Tình huống truyện thật tự nhiên, hợp lí: còn gì tự nhiên hơn tình cảm cha con; chiến tranh, người cha đi đánh giặc phải xa con; vậy mà cũng thật bất ngờ và không kém phần gay cấn: khi người cha có dịp về thăm con thì đứa con nhất định không chịu gọi cha mặc dù anh cố gắng làm mọi cách. Khoảng thời gian về phép thăm nhà lại chỉ vẻn vẹn gói gọn có ba ngày ngắn ngủi, tạo thêm sự dồn nén cho câu chuyện.
Cái mong ước của người cha được nghe con mình gọi "ba" tưởng đơn giản nhưng mà thực ra lại vô cùng khó khăn. Ngay từ khi mới trông thấy con từ xa, anh Sáu đã không thể kìm được tình cảm của mình: "không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên vội vã bước những bước dài, rồi đứng lại kêu to: "Thu ! Con" anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh". Nhưng, những phản ứng của bé Thu, con anh, lại hoàn toàn trái ngược với những gì anh nghĩ: "nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng". Và khi thấy anh vẫn tiếp tục tiến về phía nó, thì "mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: "Má ! Má!". Những hành động cảm xúc của anh Sáu lẫn bé Thu đều rất đúng với tâm lí của mỗi người, ngẫm kĩ thì khó mà khác được. Đó chính là cái tài của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Nguyên cớ của tình huống này là vết thẹo trên mặt người cha – dấu ấn của chiến tranh – đã khiến cho em bé thấy khác với tấm hình ba chụp chung với mẹ mà em vẫn coi. Thế nên, trong mấy ngày ba về phép, Thu đã không chịu gọi ba lấy một tiếng. Ngay cả khi mẹ nó cố tình đặt nó vào những tình huống bắt buộc phải gọi đến ba nó, thì Thu cũng chỉ gọi trống không: "Vô ăn cơm !", "Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái", "Cơm sôi rồi, nhão bây giờ". Cả hai cha con thi gan với nhau, không ai chịu ai và những lần này phần thắng thuộc về bé Thu.
Và cao trào của tình huống này là chi tiết trước sự bướng bỉnh của bé Thu, anh Sáu đã không giữ được bình tĩnh "vung tay đánh vào mông nó và hét lên" khi nó hất cái trứng anh gắp cho nó. Bé Thu phản ứng lại bằng cách bỏ sang nhà bà ngoại. Và đến đây, nhà văn đã tạo ra chi tiết để "cởi nút" truyện. Bà ngoại đã giải thích cho bé Thu hiểu về vết thẹo mà ba em có, vi vậy, Thu đã chấp nhận người ba của mình. Thế nhưng, éo le thay, đây cũng là lúc mà anh Sáu phải quay lại căn cứ. Đoạn văn miêu tả cuộc chia tay của hai cha con đã bộc lộ tình yêu thương mãnh liệt của con đối với cha.
Khác với lúc về, lần này anh Sáu cố gắng kìm nén tình cảm của mình, "anh chỉ dám đứng nhìn nó". Bé Thu, sau một ngày ở bên nhà bà ngoại, lúc này đã biết được nhiều điều về ba nó. "Vẻ mặt của nó có gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa". Và cái giây phút bùng nổ tình cảm của bé Thu là giây phút mà Thu gọi ba, không phải là một tiếng gọi thầm mà là một tiếng kêu thét kéo dài.
Tình huống thứ nhất kết thúc, mở ra tình huống thứ hai. Nỗi nhớ con, sự dằn vặt vì đã đánh con khiến anh Sáu ngày đêm làm chiếc lược ngà cho con – đúng theo lời dặn của bé lúc chia tay cha "Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!".
Một buổi chiều, anh Sáu hớt hải chạy từ rừng về như trẻ con bắt được quà, thì ra anh đã tìm được một khúc ngà voi. Sau đó ngày đêm anh lấy vỏ đạn cưa nhỏ khúc ngà voi thành từng miếng nhỏ, tỉ mẩn làm từng chiếc răng lược. Dường như, trong khi làm cây lược từ ngà voi ấy, người cha được đối diện cùng con, tâm sự, trò chuyện với con, vì thế, những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược kì công như "người thợ bạc". Người cha còn cẩn thận khắc lên lược dòng chữ để tặng con gái của mình: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Vậy mà, thật đáng buồn vì anh đã không chờ được đến lúc trao tận tay con gái mình chiếc lược mà anh đã kì công làm cùng với tất cả những yêu thương của cha dành cho con. Giây phút cuối cùng khi chuẩn bị lìa xa cuộc đời, không còn đủ sức để trăn trối điều gì, nhưng tình cha con là không thể chết được, anh đưa cho người bạn chiến đấu của mình cây lược. Đó chính là tâm nguyện cuối cùng của anh, tâm nguyện muốn gửi gắm cây lược để trao nó lại cho bé Thu.
Bằng các tình huống truyện khá bất ngờ, nhưng tự nhiên, hợp lí, Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện được chủ đề tác phẩm, ca ngợi tình cha con, cao cả thiêng liêng. Chính tình cảm này đã góp phần làm nên sức mạnh cho những người lính nơi chiến trường, và cả cho những người thân nơi hậu phương.
Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn học mà em đã học hoặc đã đọc - Bài 2
Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện Cây khế. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian nước ta.
Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồi côi cha mẹ từ nhỏ sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có một cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác mọi việc đều đổ lên đều vợ chồng người em. Thâm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia tài sản gia tài, chiếm hết của cải đẩy vợ chồng người em ra túp lều nát với cây khế của che mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng chăm bẵm cho cây khế ra quả. Chim quý đến ăn và đã trả công vợ chông em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh trai và người anh đã tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn nhưng vì tính tham lam vô độ nên người anh đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.
Yếu tốt nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện được chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này mà bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng người em trai. Nhờ chim quý mà hai vợ chồng người em được đền đáp xứng đáng. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật có chức năng thế lực siêu nhiên thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam. Nét đặc sắc xây dựng nhân vật cũng khá nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật người em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh chịu nhiều thiệt thòi. Hai tuyến nhân vật này khá quen thuộc với kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.
Nét đặc sắc cuối cùng là sự khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Thông qua những lời thoại ngôn ngữ hành động mà chúng ta có thể thấy phần nào nét riêng biệt trong văn của tác giải và hiểu phần nào tính cách của nhân vật. Về nghệ thuật tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ và hành động để nhân vật bộ lộ rõ được cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.
Câu chuyện là bài học đắt giá và cảnh tỉnh cho những người tham lam không coi trọng gia đình tình cảm anh chị em sớm hay muộn cũng sẽ nhận được kết cục không may mắn.
Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung hoặc hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn học mà em đã học hoặc đã đọc - Bài 3
Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, quê ở Hải Dương, ông là "danh sĩ thời Lê Sơ". "Truyền kì mạn lục" do ông sáng tác đã đem lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Truyện được viết bằng chữ Hán gồm hai mươi truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Nguyễn Dữ đã ghi chép tản mạn những câu chuyện lạ trong dân gian thời Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ với sự gia công, sáng tạo. Nổi bật trong tập truyện này, ta có thể kể đến "Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên". Tác phẩm thể hiện rõ sự ngợi ca và khát vọng công lí của nhân dân trong đời sống, đồng thời lên án xã hội phong kiến đương thời với những kẻ tham lam, tàn bạo.
Câu chuyện kể về nhân vật Ngô Tử Văn với chiến thắng oanh liệt trước cái xấu, cái ác. Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, Lạng Giang, chàng nổi tiếng trong vùng với "tính cách cương trực, khảng khái". Ở nơi chàng sinh sống có một ngôi đền rất thiêng. Vậy mà vào cuối đời nhà Hồ, khi "quân Ngô sang lấn cướp", "viên Bách hộ họ Thôi tử trận gần đó đã chiếm lấy ngôi đền và làm yêu làm quái trong dân gian". Ngô Tử Văn rất tức giận vì điều này, vì thế, chàng đã quyết định đốt đền. Sau khi về nhà, chàng lên cơn sốt, trong cơn mê man chàng thấy hồn ma tên bại tướng phương Bắc. Mặc cho tên tướng giặc đe dọa, uy hiếp rằng nếu không trả lại ngôi đền Tử Văn sẽ gặp phải tai vạ, chàng vẫn ung dung, bình thản. Thổ Công hiện lên kể lại toàn bộ sự việc mình bị hại cho Tử Văn và những tội ác tên hung thần gây ra. Vì vậy, trước mặt Diêm Vương, chàng đã dũng cảm tố cáo hồn ma viên Bách hộ. Cuối cùng, Tử Văn được Diêm Vương cho sống lại. Sau này, để đáp lại lời đề bạt của Thổ công, chàng đã nhận chức Phán sự ở đền Tản Viên.
Nguyễn Dữ đã thành công xây dựng nhân vật Ngô Tử Văn với tính cách thẳng thắn, dũng cảm. Không thể làm ngơ trước sự quấy phá của tên hung thần, Tử Văn đã "tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền". Hành động đốt đền của chàng có chủ đích, cẩn trọng và không phải là hành động bộc phát. Chàng tin rằng hành động của bản thân xuất phát từ những mục đích tốt đẹp, chàng muốn trừ khử tên tướng giặc để người dân có cuộc sống yên bình. Điều này cho thấy Ngô Tử Văn là một người dũng cảm, Tử Văn tin hành động chính nghĩa của mình sẽ được ông trời ủng hộ. Trước lời đe dọa của tên bại tướng phương Bắc, chàng vẫn tỏ ra điềm tĩnh, tự nhiên "Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ "ngồi ngất ngưởng tự nhiên". Chàng đã vạch trần tội ác của tên hung thần và trả lại ngôi đền cho Thổ Công "Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng", "Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi; không đúng như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn". Từ nhân vật Ngô Tử Văn, tác giả muốn đề cao sự nhân nghĩa, dũng cảm của con người. Những đức tính này giúp con người có thể sống vì cộng đồng, vì hạnh phúc nhân dân. Việc Ngô Tử Văn nhận chức Phán sự đền Tản Viên còn thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong xã hội.
Trái ngược với Tử Văn, viên Bách hộ họ Thôi đại diện cho sự gian xảo. Một tên tướng bại trận lưu vong nơi đất khách mà cướp ngôi đền của Thổ thần để tác oai, tác quái, gây bao phiền nhiễu cho dân lành, hắn còn xảo trá tới mức đút lót, dọa nạt những tên quỷ Dạ Xoa.
Tác phẩm còn lên án, tố cáo chế độ phong kiến đương thời với những tên tham quan, chà đạp lên đời sống của người dân. Điều này được thể hiện rõ nhất qua không gian kì ảo ở thế giới âm ti. Nhân vật kì ảo Diêm Vương được khắc họa là một người chính trực, phán xử đúng tội. Khi biết được lũ quỷ sai thông đồng với hồn ma tên hung thần, người đã "sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu U". Câu nói của Diêm Vương thể hiện sự răn đe những tên tham quan "Lũ các ngươi chia tòa sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao hết được!"
Cốt truyện kịch tính, hấp dẫn, sự đan xen giữa các yếu tố thực và ảo dày đặc cũng làm nên sức hút cho tác phẩm. Yếu tố kì áo có thể kể đến như: nhân vật kì ảo (hồn ma tên tướng giặc, quỷ Dạ Xoa, Diêm Vương, Thổ công), chi tiết kì ảo: Tử Văn chết đi sống lại; chàng nhận chức Phán sự đền Tản Viên. Yếu tố thực trong tác phẩm: địa danh có thật (vùng đất Lạng Giang), thời gian lịch sử (cuối đời nhà Hồ). Ngoài ra, lối kể chuyện lôi cuốn và việc sử dụng ngôi kể thứ ba cũng góp phần giúp người đọc hình dung ra một cách khái quát sự kiện được nhắc tới. Lời bình cuối truyện đã góp phần thể hiện quan niệm của tác giả về kẻ sĩ.
Truyện ngầm phản ánh xã hội phong kiến đương thời nhiều bao nhiêu bất công với người dân nghèo khổ. Qua cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác của Ngô Tử Văn, tác giả đã khẳng định niềm tin về sự chiến thắng của cái thiện. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện khát vọng sống công bằng của nhân dân. Truyện đem lại cho chúng ta nhiều bài học ý nghĩa trong cuộc sống về sự dũng cảm, kiên cường, khẳng khái khi đấu tranh trước cái xấu, cái ác.